Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA-TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 29 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2049/2020/TLST- HNGĐ ngày 15/10/2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/01/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đinh Thị N, sinh năm 1978.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn E, sinh năm 1974.

Cùng trú tại: A1/81, khu phố 1, phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

( Bà N, ông E có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn, bản tự khai của nguyên đơn bà N trình bày: Bà N và ông E tự nguyện yêu thương nhau và có đăng ký kết hôn năm 2002 tại Ủy ban nhân dân phường T, Thành phố B, Tỉnh Đồng Nai. Quá trình chung sống không hạnh phúc nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên gây gỗ và đã sống ly thân. Nay bà không còn tình cảm với ông E nên đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Có 03 con chung tên Nguyễn Hữu N1, sinh năm 2000;

Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/04/2002 và Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 13/05/2014. Bà N yêu cầu tòa án giải quyết cho bà được nuôi cháu T vì hiện cháu T đang sống ổn định với bà, không yêu cầu ông E cấp dưỡng nuôi con. Đối với hai con chung là cháu N1 và cháu H đã trên 18 tuổi và có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì lý do bận công việc bà N đề nghị Tòa án cho bà được vắng mặt tại phiên tòa xét xử.

*Ông E có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và có bản tự khai như sau: Ông E không đồng ý ly hôn với bà N và nếu bà N cương quyết ly hôn thì tùy bà N.

Về tài sản chung: Không có;

Về nợ chung: Không thiếu nợ ai.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Hôn nhân giữa bà N và ông E là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà N có căn cứ.

Về con chung: Hiện con chung là Nguyễn Hữu N1, sinh năm 2000; Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/04/2002 đã trưởng thành đề nghị Hội đồng xét xử không xE xét. Đối với cháu Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 13/05/2014 hiện đang sống ổn định với bà N và nguyện vọng của cháu Thùy muốn sống với mẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Thùy cho bà N chăm sóc giáo dục là phù hợp. Tạm thời ông E không cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Bà N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông E cư trú tại phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho ông E về việc thụ lý vụ án, làm việc, hòa giải, công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa. Ông E đã có bản tự khai và có đơn xin vắng mặt. Bà N có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa xét xử. Căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà N và ông E chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân Vạn, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của bà N thì vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên gây gỗ nhau và đã sống ly thân. Tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với ông E để bà ổn định cuộc sống mới. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà N và ông E thật sự trầm trọng không thể hàn gắn được, bà N và ông E đã sống ly thân, Tòa án đã tạo điều kiện hòa giải hàn gắn đoàn tụ nhưng bà N cương quyết ly hôn không đồng ý đoàn tụ. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N về việc ly hôn với ông E.

[3] Về con chung: bà N và ông E có 03 con chung là Nguyễn Hữu N1, sinh năm 2000; Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/04/2002 và Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 13/05/2014, hai con chung là cháu N1 và cháu H đã trên 18 tuổi và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không giải quyết. Hiện cháu T đang sống ổn định với bà N và nguyện vọng của cháu Thùy là muốn sống với mẹ nên Hội đồng xét xử giao cháu Thùy cho bà N chăm sóc giáo dục là phù hợp. Tạm thời ông E không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Các đương sự khai không có nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về nợ chung: Các đương sự khai không có nên Hội đồng xét xử không xE xét.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, bà N phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

[7] Ý kiến của Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên cần ghi nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 203, Điều 207 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 9,10,11,12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

Áp dụng Điều 6; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N. Bà N được ly hôn với ông E.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 13/05/2014 cho bà N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm thời ông E không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông E được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con khi cần thiết, các đương sự được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà N phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà N đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự TP Biên Hòa, biên lai số 0006813 ngày 30/09/2020. Bà N đã nộp xong án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về