Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 18/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 18 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ.

Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 227/2020/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 02 năm 2021; Thông báo đưa vụ án ra xét xử số 47/2021/TBXXST- HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Trúc X, sinh năm 1995 Địa chỉ: Ấp 3, xã T, huyện Đ, TP. C.

(Có mặt tại phiên tòa).

Bị đơn: Anh Đồng Văn G, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Ấp 2, xã T, huyện Đ, TP. C. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Trúc X trình bày: Qua thời gian tìm hiểu, chị Nguyễn Thị Trúc X và anh Đồng Văn G đã tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, TP. C vào ngày 10/7/2013. Sau khi chung sống gần 01 năm thì anh G bắt đầu chơi bời không chăm lo làm ăn, mặc dù chị X đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh G không sửa đổi, nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng hiện đã sống ly thân, không có biện pháp hàn gắn. Do thấy hôn nhân không hạnh phúc, nên chị X xin ly hôn với anh G.

Về con chung: Chị X và anh G có 02 con chung là Đồng Gia B(nam) sinh ngày 04/6/2013 và Đồng Gia B X(nữ) sinh ngày 29/10/2015. Chị X yêu cầu được nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh G vẫn vắng mặt không lý do, nên phiên hoà giải không thể tiến hành được, Do đó, Tòa án tiến hành thủ tục xét xử vắng mặt đối với anh G.

Anh G vắng mặt tại phiên tòa, nên không ghi nhận được ý kiến trình bày. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ trình bày ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký và nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đúng quy định về việc phải có mặt khi Tòa án triệu tập. Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp ly hôn” là phù hợp; bị đơn có nơi cư trú tại huyện Cờ Đỏ nên Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Về nội dụng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Trúc X, chị X được ly hôn với anh Đồng Văn G; Về con chung: Giao 02 con chung là Đồng Gia B(nam) sinh ngày 04/6/2013 và Đồng Gia B X(nữ) sinh ngày 29/10/2015 cho chị X nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, ghi nhận sự tự nguyện của chị X về việc không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung và nợ chung: Do anh G vắng mặt không lý do, nên không ghi nhận được ý kiến của anh G về vấn đề tài sản chung và nợ chung, nên tách thành vụ án khác để giải quyết, nếu sau này các đương sự có phát sinh tranh chấp hoặc có yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nguyễn Thị Trúc X và anh Đồng Văn G, tiến tới hôn nhân có đăng ký kết hôn theo qui định của pháp luật. Nay, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, chị chị X có đơn xin ly hôn với anh G, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Tranh chấp này, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bị đơn có nơi cư trú tại địa bàn huyện Cờ Đỏ, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ theo qui định tại Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập anh G nhiều lần, nhưng anh G vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh G theo qui định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị X và anh G tiến tới hôn nhân có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Chị X cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc anh G chỉ lo ăn chơi không chăm lo làm ăn và chăm sóc vợ con, mặc dù chị X đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh G không thay đổi. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Toà án triệu tập nhiều lần, nhưng anh G đều vắng mặt, cũng như không có văn bản gửi đến Toà án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị X. Qua đó, chứng tỏ anh G không có thiện chí hàn gắn tình cảm với chị X. Chị X vẫn kiên quyết xin ly hôn với anh G. Điều đó, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị X và anh G đã thật sự sâu sắc trầm trọng, mục đích của hôn nhân là hạnh phúc không đạt được. Nên yêu cầu xin ly hôn của chị X là có cơ sở chấp nhận.

[4]. Về con chung: Chị X yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung là Đồng Gia B(nam) sinh ngày 04/6/2013 và Đồng Gia B X(nữ) sinh ngày 29/10/2015 cho chị X nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, các con chung hiện đang sống cùng với chị X. Cháu Đồng Gia Bcó nguyện vọng được sinh sống cùng với chị X. Chị X có cung cấp bảng lương của mình để chứng minh hiện nay chị X có việc làm và thu nhập ổn định, nên có khả năng nuôi con, bên cạnh đó, không ghi nhận được ý kiến của anh G về vấn đề này. Để tại điều kiện cho cháu Bvà cháu Xđược gần gủi và sự chăm sóc của mẹ và phát triển toàn diện, nên cần thiết phải giao 02 cháu Bvà Xcho chị X nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là phù hợp. Chị X không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của đương sự, nên ghi nhận.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh G không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích mọi mặt của của chung, các đương sự có quyền yêu cầu cấp dưỡng và thay đổi người nuôi con theo quy định của pháp luật.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Do anh G vắng mặt không lý do, nên không ghi nhận được ý kiến của anh G về vấn đề tài sản chung và nợ chung, nên tách thành vụ án khác để giải quyết, nếu sau này các đương sự có phát sinh tranh chấp hoặc có yêu cầu giải quyết.

[6] Về án phí: Chị X phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 227, 228; 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng: Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin hôn của chị Nguyễn Thị Trúc X với anh Đồng Văn G.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Trúc X được ly hôn với anh Đồng Văn G.

Về con chung: Chị X được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Đồng Gia B(nam) sinh ngày 04/6/2013 và Đồng Gia B X(nữ) sinh ngày 29/10/2015 đến tuổi trưởng thành. Chị X không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho anh G, không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích mọi mặt của con chung, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con theo qui định.

Về tài sản chung và nợ chung: Tách thành vụ án khác để giải quyết, nếu sau này các đương sự có phát sinh tranh chấp hoặc có yêu cầu giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Trúc X chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm; chuyển số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị X đã nộp theo biên lai số 013344 ngày 12/10/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ thành tiền án phí.

Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Trúc X có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; anh Đồng Văn G có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thựa hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 18/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về