Bản án 23/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội giết người

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 23/12/ 2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 23 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2020/TLST- HS ngày 27 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2020/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: GIÀNG LÁO G; Giới tính: Nam Sinh năm 1949; Nơi sinh: huyện P, tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Bản H, Xã N, huyện P, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Con ông: Giàng A K1: đã chết; Con bà Vàng Thị T( đã chết); Anh, em ruột: Bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Có vợ: Hảng Thị S; (đã chết); Bị cáo có 06 con, con lớn sinh năm 1967, con nhỏ sinh năm 1988; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/5/2020 cho đến ngày 31/8/2020 được bảo lĩnh. Ngày 04/11/2020 bị bắt tạm giam, đến ngày 06/11/2020 được áp dụng biệp pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang ở tại bản H, xã N, huyện P, tỉnh Lai Châu. Có mặt tại phiên tòa.

*Ngưi bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Công H - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu (Có mặt).

* Bị hại: Giàng A K, sinh năm 1988 ( Đã chết) - Người đại diện hợp pháp cho bị hại Giàng A K:

- Chị Lý Thị V, sinh năm 1994( Là vợ của nạn nhân Giàng A K) - Anh Giàng A P, sinh năm 1976 (Anh trai của nạn nhân Giàng A K) Đều trú tại địa chỉ: Bản H, xã N, Huyện P, tỉnh Lai Châu (Đều có mặt)

* Người làm chứng: Cháu Giàng Thị N, sinh năm 2010 (con gái của K) Địa chỉ: Bản H, xã N, Huyện P, tỉnh Lai Châu.

* Người phiên dịch: Ông Lầu A P1, sinh năm 1983 Nơi công tác: Đài phát thanh truyền hình Tỉnh Lai Châu (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 03 tháng 5 năm 2020 Giàng Láo G đi uống rượu về đến nhà, thấy Giàng A K sinh năm 1988 (là con trai của G) đang nằm trên giường trêu đùa với các con của K làm các cháu khóc thấy vậy G nhắc nhở K không được làm các cháu khóc nên giữa G và K xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau. Cãi nhau một lúc, G đi ra ngoài vườn để đuổi gà và sửa lại hàng rào. Làm xong G đi vào trong nhà tìm thuốc lào hút nhưng G không tìm thấy nên đã đi ra bàn ngồi uống nước gần giường K đang nằm, K đang nằm trong giường ngủ nói “Bố suốt ngày đi uống rượu về, bố chửi con”, G nói “Bố không chửi con mà bảo con không được chửi các con của con nữa”.

Một lúc sau, G lấy con dao nhọn bằng kim loại để trong bao dao treo ở trên vách gỗ gần bàn uống nước con dao dài 34,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 24,5cm nơi rộng nhất của lưỡi dao 4,5cm dày 0,5cm, G cầm dao vào gian nhà phía trong, gần giường ngủ của G để chẻ lạt. Khi chẻ lạt xong, G để con dao trên ở chân cột nhà ngay đầu giường của G rồi lên giường nằm ngủ, một lúc sau G dậy đi ra lấy con dao trên mang ra bàn uống nước để hút thuốc lào, G tiếp tục cãi nhau nên K đi ra chỗ G, lúc đó thì các con của K là Giàng Thị N, sinh năm 2010, đang ngồi trên giường. Khi đi đến gần chỗ G đứng, K nhìn thấy G đang cầm con dao trên tay, nên K nói “Ông đang cầm dao, ông thích đâm tao à?” đồng thời K tiến lại gần chỗ G. Thấy K đi đến gần chỗ mình nên G đứng dậy tiến đến đối diện với K, cầm dao bằng tay phải hướng mũi dao về phía K đâm ba phát vào người K trong đó 01 nhát vào ngực trái, 01 nhát vào ngực phải, 01 nhát vào sườn bên trái của K làm thủng thùy trên, thùy dưới phổi bên trái, thủng quai động mạch chủ, vết rách thất trái, ổ van hai lá tới mỏm tim, khiến K ngã xuống nền nhà tử vong tại chỗ. Khi K ngã xuống nền nhà thì con dao đang cắm trên người K bị văng ra và rơi ở ngay bên cạnh chân của K, G đi vòng qua người K nhặt con dao và vứt xuống gần giường chỗ cháu N ngồi, rồi đi ra ngồi tại chân cột nhà. Thấy bố bị đâm nằm dưới nền nhà cháu N chạy ra ôm lấy K, đồng thời hét lên gọi mẹ là Lý Thị V sinh năm 1994 (là vợ của K) ra ôm lấy người của K thì K đã tử vong. Sau khi sự việc xảy ra Giàng Láo G bị bắt giữ.

Kết qủa khám nghiệm tử thi Giàng A K xác định - Tại đầu trong khoang liên sườn 3-4 có 01 vết tổn thương dạng rách da kích thước 2cmx 0,6cm.

- Ngay tại khoang liên sườn 2-3 có 01 vết tổn thương xuyên thấu vào lồng ngực kích thước 4,5cm x 1,3cm.

- Đường nách giữa bên trái, giữa khoang liên sườn 5 – 6 có 01 vết tổn thương dạng chột xuyên thấu vào trong lồng ngực kích thước 4,5cm x 1,5cm.

- Thủng khe liên sườn 2 – 3 đường nách trước.

- Thủng khe liên sườn 4 – 5 đường nách giữa.

- Thủng thùy trên phổi bên trái kích thước dài 3cm.

- Thủng mép ngoài thùy dưới phổi bên trái kích thước dài 4cm.

- Khoang màng phổi bên trái có khoảng 300ml dịch màu đỏ máu không đông.

- Thủng quai động mạch chủ, vết rách thất trái, ổ van hai lá tới mỏm tim, kích thước dài 6cm.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 37/BKL - TTPY ngày 05/7/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Lai Châu kết luận: Nguyên nhân chết: Sốc mất máu cấp không hồi phục. Cơ chế: Vật sắc nhọn tác động → Thủng phổi, thủng quai động mạch chủ, thủng tim → Mất máu cấp → Tử vong. Thời gian chết: Trong khoảng 16 giờ - 18 giờ. Vật gây nên thương tích: Là vật sắc nhọn.

Tại bản cáo trạng số: 34/CT-VKSLC-P1 ngày 26/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu truy tố bị cáo Giàng Láo G về tội: “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà sơ thẩm hôm nay bị cáo Giàng Láo G thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra bị cáo cho rằng, trước đó K đã nhiều lần đánh bị cáo. Ngày 03/5/2020 K đánh bị cáo trước cụ thể, K dùng tay vỗ mạnh vào vai bị cáo là nguyên nhân bị cáo đâm K.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Giàng Láo G phạm tội "Giết người". Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123;

điểm o, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54/BLHS, xử phạt bị cáo Giàng Láo G với mức án từ 10 năm đến 11 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập xử lý do đại diện hợp pháp cho bị hại không yêu cầu bồi thường. Về vật chứng của vụ án đề nghị HĐXX xử lý theo quy định tại điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của bị hại là chị Lý Thị V và Giàng A P đều không yêu cầu bị cáo bồi thường và đều xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử khi xem xét, quyết định hình phạt cần xét đến các tình tiết giảm nhẹ như: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ văn hóa thấp nên nhận thức và hiểu biết pháp luật có nhiều hạn chế. Đại diện hợp pháp cho người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như đại diện VKS đề nghị, cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, miễn án phí HSST, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra người bào chữa cho bị cáo, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Chỉ vì một câu nói trách cứ bố của con trai mình là Giàng A K về việc bị cáo suốt ngày đi uống rượu về rồi lại chửi con cái mà giữa bị cáo và con trai đã xảy ra cãi nhau. Lời qua tiếng lại bị cáo Giàng Láo G đang cầm sẵn con dao trên tay trong lúc chẻ lạt, thấy vậy K nói “ Ông đang cầm dao ông thích đâm tao à”, thấy K tiến sát lại chỗ bị cáo, bị cáo đã đâm 03 nhát, trong đó 02 nhát vào vùng ngực, 01 nhát vào sườn trái của K, Hậu quả làm K tử vong tại chỗ. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với nội dung bản cáo trạng mà Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu truy tố, phù hợp với vật chứng thu giữ được, kết luận giám định pháp y, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi cùng các tài liệu chứng cứ được thu thập hợp pháp trong quá trình điều tra. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, sử dụng con dao dài 34,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 24,5cm nơi rộng nhất của lưỡi dao 4,5cm dày 0,5cm, thực hiện hành vi đâm anh K một cách liên tục. Điều này chứng tỏ bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Lỗi của bị cáo là cố ý trực tiếp. Người mà bị cáo giết lại chính là con đẻ của bị cáo. Hành vi mà bị cáo thực hiện là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của công dân được pháp luật bảo vệ. Mặc dù tại phiên tòa hôm nay bị cáo cho rằng trước đó K đã nhiều lần đánh bị cáo, ngày 03/5/2020 K có hành vi dùng tay đánh vào vai bị cáo, xong với lỗi của K như vậy chưa đến mức bị cáo phải tước đi sinh mạng của K trái pháp luật. Hành vi đó cấu thành tội “Giết người” được quy định tại điểm n khoản 1 điều 123 BLHS. Do đó Cáo trạng số 43/CT- VKS- P1 ngày 26 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh lai Châu truy tố bị cáo về tội Giết người theo quy định tại điểm n khoản 1 điều 123 BLHS là có căn cứ pháp luật không oan sai. Điều 123. Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

n) Có tính chất côn đồ.

[3]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xem xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo gây nên cũng như các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức được việc bị cáo dùng dao sắc nhọn đâm vào vùng ngực của anh K là vùng trọng yếu trong cơ thể sẽ gây ra chết người nhưng bị cáo đã cố ý thực hiện tội phạm, đâm 03 nhát dao vào vùng ngực và sườn trái anh K. Điều đó thể hiện bị cáo cố ý tước đi mạng sống của con trai mình, do đó cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để bị cáo thấy được tính nghiêm minh của pháp luật cũng như làm gương cho người khác.

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Giàng Láo G xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, là người dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa không biết chữ nên sự nhận thức và hiểu biết pháp luật còn có những hạn chế nhất định. Sau khi phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình; Đại diện hợp pháp của bị hại là chị Lý Thị V(vợ của bị hại Giàng A K) xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Khi phạm tội, bị cáo là người trên 70 tuổi. Do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm o, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, Hội đồng xét xử cũng cân nhắc để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Qua vụ án này là bài học nhắc nhở, cảnh tỉnh đối với tất cả các bậc cha mẹ, người thân, đặc biệt các cấp chính quyền ở cơ sở cần quan tâm tới công tác hòa giải, giáo dục đạo đức, lối sống cho các thành viên trong gia đình và xã hội, để hạn chế và phòng ngừa những hành vi phạm tội xảy ra tương tự trên địa bàn tỉnh.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo già yếu, gia đình thuộc hộ nghèo nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Căn cứ vào các Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Cần tịch thu để tiêu hủy toàn bộ những vật chứng bao gồm: 02 tăm bông; 01 chiếc áo sơ mi dài tay màu ghi đã cũ; ; 01 sợi dây vải; 01 con dao nhọn cán bằng nhựa màu trắng đục; 01 bao đựng dao bằng gỗ; 01 chiếc quần bò màu xám; 01 thắt lưng giả da màu đen; 01 quần đùi màu đen; 01 áo sơ mi dài tay có chấm trắng đen; 01 mẫu máu của Giàng Láo G; 01 mẫu máu của Giàng A K.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo là người gây lên cái chết cho con trai mình là Giàng A K,bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại theo đúng quy định tại các điều 584, 585, 586, 591 Bộ luật Dân sự 2015. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp cho bị hại là chị Lý Thị V và anh Giàng A P không đề nghị yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Về án phí hình sự: xét thấy bị cáo sống ở xã kinh tế đặc biệt khó khăn theo quyết định 900/QĐ-TTg ngày 20/6/2017 của Thủ tướng Chính Phủ, theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Giàng Láo G phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm o,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Giàng Láo G 12 (mười hai) năm tù. Bị cáo đã bị tạm giam 04 tháng, nay bị cáo còn phải thi hành tiếp 11 (mười một) năm 08 (tám) tháng, thời hạn tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 02 tăm bông; 01 chiếc áo sơ mi dài tay màu ghi đã cũ; 01 sợi dây vải; 01 con dao nhọn cán bằng nhựa màu trắng đục; 01 bao đựng dao bằng gỗ; 01 chiếc quần bò màu xám; 01 thắt lưng giả da màu đen; 01 quần đùi màu đen; 01 áo sơ mi dài tay có chấm trắng đen; 01 mẫu máu của Giàng Láo G; 01 mẫu máu của Giàng A K.(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an tỉnh Lai Châu – Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu hồi 14giờ 30 phút ngày 03 tháng 11 năm 2020)

3. Án phí: Áp dụng nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331,333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo, đại diện hợp pháp cho bị hại được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

479
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội giết người

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về