Bản án 23/2020/HSST ngày 12/05/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 23/2020/HSST NGÀY 12/05/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2020/TLST-HS ngày 03-4-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST-HS ngày 28-4-2020, đối với bị cáo:

MNL, sinh năm 1997, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: số 4/108B A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; bố là: D, mẹ là: E; chưa có vợ con; tiền án: Chưa; tiền sự: Bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Thời hạn là 03 tháng kể từ ngày 12-3-2019 theo Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 12-3-2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường B; bị tạm giữ ngày 24-12-2019, bị tạm giam từ ngày 26-12-2019; có mặt.

- Bị hại: Anh BH; trú tại: số 1/174 F, phường F, quận C, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh NLQ; trú tại: số 9 Lô 77, Khu B1, phường G, quận H, thành phố Hải Phòng. Hiện đang chấp hành án phạt tù tại Đội 2, Phân trại số 3, Trại giam I, Hải Phòng; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh NLC; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

MNL đánh bạc trực tuyến trên mạng Internet, thắng được số tiền 1.600.000 đồng. Do không có tài khoản nên ngày 26-4-2019, MNL đến nhà anh BH mượn tài khoản của anh BH để nhận tiền, anh BH đồng ý. Sau khi tiền được chuyển về tài khoản, anh BH điều khiển xe môtô Biển kiểm soát 15B 1-727.58 chở MNL đi rút tiền, nhưng không nhớ mã pin nên thẻ bị khóa. Sáng ngày 27-4-2019, MNL và anh BH tiếp tục đi rút tiền nhưng không rút được do Ngân hàng nghỉ lễ. MNL và BH về ngồi uống nước tại quán nước trước cửa nhà số 49 J, phường F, quận C, thành phố Hải Phòng. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, do cần tiền ăn tiêu nên MNL đã nói dối đi đón bạn ở đường K để mượn xe mô tô nêu trên của anh BH và hẹn 15 phút mang trả. Anh BH tin là thật nên giao xe cho MNL mượn. MNL điều khiển ngay xe đến nhà NLC để nhờ NLC cầm cố xe vay tiền. NLC gọi điện cho NLQ trao đổi về việc cầm xe. NLQ đồng ý, hẹn gặp NLC và MNL ở khu vực ga Hải Phòng. Khi gặp nhau, NLQ có hỏi về nguồn gốc xe, MNL nói xe của chị gái. NLQ đồng ý nhận cầm cố xe, cho MNL vay 3.000.000 đồng với thời hạn 10 ngày, thu lãi trước 250.000 đồng. Sau đó, MNL tiếp tục vay thêm 500.000 đồng, NLQ thu lãi 50.000 đồng. Tất cả số tiền vay được. MNL chi tiêu cá nhân, rồi bỏ trốn. Anh BH đã gọi điện nhiều lần nhưng MNL không nghe máy, nên đã làm đơn trình báo Công an phường Hạ Lý. Đến ngày 24-12-2019, MNL bị bắt truy nã.

Tại bản Kết luận định giá tài sản ngày 14-6-2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng Hình sự, Ủy ban nhân dân quận C kết luận: “Xe máy đã qua sử dụng, nhãn hiệu PIAGGIO, số loại LIBERTY, màu trắng, biển sổ 15B1-727.58, số khung 3400DV111393, số máy 737M-5012437, cht lượng còn khoảng (36-38)%. Trị giá 20.000.000 đồng”.

Tại Cáo trạng số: 18/CT-VKSHB ngày 01-4-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng truy tố bị cáo MNL về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo MNL khai nhận, khoảng 11 giờ, ngày 27-4-2019, sau khi cùng anh BH đi rút tiền nhưng không được, do muốn có tiền ăn tiêu nên bị cáo nói dối anh BH đi đón bạn ở đường K để mượn xe mô tô Biển kiểm soát 15B1- 727.58 của bị hại, hẹn 15 phút sau sẽ mang trả. Mượn được xe, bị cáo đã mang ngay chiếc xe đi cầm cố và vay của NLQ 3.500.000 đồng ăn tiêu hết. Bị hại có gọi điện liên lạc, yêu cầu trả xe nhưng bị cáo không trả được. Bị hại trình báo sự việc với cơ quan Công an thì bị cáo đã bỏ trốn. Đến ngày 24-12-2019, bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã.

Tại phiên tòa, bị hại khai nhận như lời khai của bị cáo. Chiếc xe mô tô PIAGGIO - LIBERTY, màu trắng, biển kiểm soát 15B 1-727.58 bị MNL chiếm đoạt đã được cơ quan Công an thu hồi, trả lại. Vì vậy, bị hại không có yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, anh NLQ vắng mặt, nhưng trong quá trình điều tra đã có lời khai như sau: Thông qua NLC, anh NLQ đã cho MNL vay tiền 02 lần (lần đầu vào ngày 27-4-2019) với tổng số tiền vay là 3.500.000 đồng, thời hạn là 10 ngày, lãi lấy trước 300.000 đồng, tài sản đảm bảo cầm cố chiếc xe mô tô LIBERTY màu trắng. Chiếc xe mô tô, cơ quan Công an thu hồi trả lại cho bị hại, anh NLQ yêu cầu MNL phải trả số tiền vay 3.500.000 đồng.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự; đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “thành khẩn khai báo” “tại phiên tòa, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo” theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 15 đến 18 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đối với việc bị cáo khai nhận đánh bạc tháng được là 1.600.000 đồng, chưa đủ căn cứ để xử lý. NLQ có hành vi nhận cầm cố chiếc xe môtô vật chứng của vụ án nhưng không chứng minh được NLQ biết rõ đó là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không khởi tố.

Đối với hành vi của anh NLQ có dấu hiệu cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển tài liệu cho Công an quận Ngô Quyền để giải quyết theo thẩm quyền.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Về tài liệu, chứng cứ cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nêu trên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về tội danh:

[3] Chứng cứ xác định bị cáo có tội: Tại phiên tòa, bị cáo nhận tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại tại phiên tòa, phù hợp với biên bản ghi lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng về động cơ, mục đích, thủ đoạn phạm tội và cách thức bị cáo tiêu thụ tài sản sau khi đã chiếm đoạt được từ bị hại. Đồng thời, còn được chứng minh bởi Kết luận định giá tài sản ngày 14-6-2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự, Ủy ban nhân dân quận C và vật chứng là xe mô tô PIAGGIO biển kiểm soát 15B1-727.58 trị giá là 20.000.000 đồng đã thu hồi, trả lại bị hại. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận, vì muốn có tiền ăn tiêu nên bằng thủ đoạn gian dối, bị cáo nói dối bị hại mượn xe mô tô để đi đón bạn và hẹn 15 phút sau sẽ trả. Ngay sau khi mượn được xe, bị cáo đã mang chiếc xe đó đi cầm cố, vay tiền ăn tiêu cá nhân hết. Hành vi đó đã phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân và gây mất trị an, an toàn xã hội. Bởi vậy, cần phải xử lý thỏa đáng.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên có thể áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự coi đây là tình tiết giảm nhẹ khác đối với bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không khắc phục thiệt hại cho bị hại, việc bị hại được nhận lại tài sản đã mất là do cơ quan Công an thu hồi trả lại, sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã của Cơ quan điều tra. Do vậy, không có cơ sở cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “ăn năn hi cải”. Nhân thân bị cáo có 01 tiền sự, tại Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 12-3-2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường B áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, thời hạn là 03 tháng kể từ ngày 12-3-2019, do MNL có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa được xóa. Bởi vậy, lần này phạm tội, cần thiết phải buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có tài sản riêng, không có việc làm ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt là chiếc xe mô tô PIAGGIO, loại LIBERTY, màu trắng, biển kiểm soát 15B1-727.58. Cơ quan Công an đã thu hồi trả lại cho bị hại. Tại phiên tòa, bị hại không có yêu cầu gì khác. Nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[9] Việc bị cáo khai nhận đánh bạc trên mạng Internet, số tiền thắng được là 1.600.000 đồng. Xét thấy, chưa đủ căn cứ để xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

[10] NLQ cho bị cáo MNL vay số tiền tổng cộng 3.500.000 đồng, thời hạn vay là 10 ngày kể từ ngày vay, lãi suất 8.000 đồng/triệu/ngày. Xét thấy, hành vi trên của NLQ có dấu hiệu cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển tài liệu cho Công an quận Ngô Quyền để giải quyết theo thẩm quyền. Bởi vậy, khoản tiền 3.500.000 đồng trong giao dịch vay nợ giữa NLQ và MNL sẽ được cơ quan có thẩm quyền giải quyết sau. Hội đồng xét xử không có cơ sở giải quyết trong vụ án này.

[11] NLQ có hành vi nhận cầm cố chiếc xe môtô vật chứng của vụ án để đảm bảo khoản vay của MNL. Nhưng không chứng minh được NLQ biết rõ đó là tài sản bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không khởi tố.

[12] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt: MNL 18 (mười tám) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 24-12-2019.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326 của UBTVQH Quốc Hội số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HSST ngày 12/05/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:23/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về