Bản án 23/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai, vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. TRẦN NHƯ HOÀNG B. Sinh ngày: 25 tháng 02 năm 1991, tại Đà Nẵng.

Nguyên quán: Huyện Hương T2, tỉnh Thừa Thiên H2.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: K76/31 đường Ông Ích K, phường Thanh B1, quận Hải C, TP. Đà Nẵng.

Nghề nghiệp: Kinh doanh Online; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Trần Như Thảo N và bà Tôn Nữ Bạch N1;

Bản thân chưa có vợ con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt ngày 26/12/2019- Có mặt tại phiên tòa.

2. VÕ THIỆN K1. Sinh ngày: 23 tháng 5 năm 1998, tại Quảng N2.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn Cang T, thị trấn Đông P, huyện Quế S, tỉnh Quảng Nam. Chỗ ở hiện nay: 120/3 đường Trường C1, phường Hòa A, quận Cẩm L, TP. Đà Nẵng.

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Võ Đ và bà Trần Thị Hồng C2;

Bản thân chưa có vợ con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt ngày 26/12/2019- Có mặt tại phiên tòa.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Trần Thị Hồng L1. Sinh năm: 1991

Trú tại: Tổ 27, phường Hòa Thuận T, quận Hải C, TP. Đà Nẵng- Vắng mặt.

2. Bà Phan Thị Thái T1. Sinh năm: 2000

Trú tại: 166/8 đường Hùng V, quận Hải C, TP. Đà Nẵng- Vắng mặt.

3. Bà Huỳnh Thi Khánh L2. Sinh năm: 1989

Trú tại: 14 Nguyễn Thiện K2, Phường An Hải Đ1, quận Sơn T2, TP. Đà Nẵng- Vắng mặt.

4. Ông Đặng Công T3. Sinh năm: 1979

Trú tại: Túy Loan Đông 1, xã Hòa P1, huyện Hòa V1, TP. Đà Nẵng- Vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

* Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Tiến Đ2. Sinh năm: 1992

Trú tại: Tổ 130, phường Hòa Cường N2, quận Hải C, TP. Đà Nẵng- Vắng mặt.

2. Ông Lê Tuấn H. Sinh năm: 1999

Trú tại: Phường An C3, thành phố H1, tỉnh Thừa Thiên Huế- Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 07 giờ 50 phút ngày 26/12/2019, tại phòng số 901 khách sạn Majestic, địa chỉ số 50 đường Phan Tôn, phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Đà Nẵng bắt quả tang Trần Như Hoàng B và Võ Thiện K1 đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ của:

- Trần Như Hoàng B:

+ 01 gói nylon có kích thước (4x7cm) bên trong có chứa 3,5 viên nén màu vàng (ký hiệu C); + 01 điện thoại di động hiệu Iphone gắn sim 0905690011 số Imel 1: 353906103448891; Imel 2: 353906103470556;

+ 01 CMND số: 201638927, mang tên Trần Như Hoàng B;

+ 2.000.000 đồng; 01 thẻ visa techcombank mang tên Trần Như Hoàng B;

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu SH150i màu trắng đen, biển kiểm soát 43C1- 43146, số khung: RLHKF1419DY070278, số máy: KF14E0060309;

- Võ Thiện K1:

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh gắn sim 0369649334; Imel 1: 357966108132052; Imel 2: 357967108132050;

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Air Blade màu đỏ biển kiểm soát 43K1-06754; số khung: 245402, số máy: 1032656;

+ 01 CMND số: 206081897, mAg tên Võ Thiện K1;

+ 01 Giấy phép lái xe số: 49016008456, mang tên Võ Thiện K1;

+ 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô biển kiểm soát 43K1-067.54 mang tên Đặng Công T3;

+ 1.000.000 đồng;

Ngoài ra, trong lúc kiểm tra tại Phòng số 901 còn có Trần Thị Hồng L1 trú tại tổ 27, phường Hòa Thuận T, quận Hải C, TP. Đà Nẵng và Phan Thị Thái T1 trú tại 166/8 đường Hùng V, phường Hải C, quận Hải C, TP. Đà Nẵng.

* Tại kết luận giám định số 19 ngày 31/12/2019 của Phòng KTHS - CATP Đà Nẵng: Viên nén màu vàng trong mẫu ký hiệu C gửi giám định là ma túy, loại MDMA và Methemphetamine; khối lượng mẫu C: 1,715 gam.

Qua điều tra, Trần Như Hoàng B và Võ Thiện K1 khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 25/12/2019, sau khi nhậu tại quán Toxic đường Trần Văn Trứ, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng, Trần Như Hoàng B rủ Võ Thiện K1, Trần Thị Hồng L1 và Phan Thị Thái T1 đến khách sạn Majestic địa chỉ số 50 đường Phan Tôn, phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng sử dụng ma túy thì K1, L1 và T1 đồng ý. Khi cả nhóm đến khách sạn Majestic thì B trực tiếp thuê phòng số 901 (bên trong phòng 901 có phòng 902 và 903) để cả nhóm sử dụng ma túy. Lúc này, L1 và T1 lên phòng trước, còn B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SH 150i biển kiểm soát 43C1-431.46 chở K1 đi mua ma túy. Trên đường đi, B sử dụng điện thoại di động hiệu Iphone sim số 0905690011 gọi đến số 0702482372 của nam thanh niên (không rõ lai lịch) hỏi mua 10 viên thuốc lắc và 01 chỉ Ketamine thì nam thanh niên đồng ý bán với giá 6.500.000 đồng, hẹn giao dịch tại khu vực cầu Tuyên Sơn, đầu đường Lê Văn Hiến, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng. Trên đường đi, B chở K1 đến trạm ATM đường Nguyễn Văn Thoại để B rút tiền, đưa cho K1 6.500.000 đồng rồi cùng nhau đến điểm hẹn. Tại đây, K1 cầm tiền đưa cho nam thanh niên và nhận 10 viên ma túy thuốc lắc, 01 chỉ Ketamine. Sau đó, B chở K1 về khách sạn Majestic, K1 để ma túy trên bàn gỗ trong phòng số 901, ai thích sử dụng thì tự đến lấy. B, K1, L1 và T1 đã sử dụng hết 6,5 viên thuốc lắc và 01 chỉ Ketamine, còn 3,5 viên thuốc lắc đang tiếp tục sử dụng thì bị bắt quả tang.

Với nội dung trên tại bản Cáo trạng số 23/CT-VKS-NHS, ngày 19/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Trần Như Hoàng B và Võ Thiện K1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ N quan điểm đã truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Trần Như Hoàng B và Võ Thiện K1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Như Hoàng B mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Thiện K1 mức án từ 12 đến 15 tháng tù.

Về vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy của Trần Như Hoàng B:

+ 01 gói nylon có kích thước (4x7cm) bên trong có chứa 3,5 viên nén màu vàng (ký hiệu C, đã được niêm P1 hoàn trả lại sau giám định, có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP. Đà Nẵng);

+ 01 sim điện thoại số 0905690011;

- Đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước của Trần Như Hoàng B:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone số Imel 1: 353906103448891; Imel 2: 353906103470556;

- Đề nghị tiếp tục quy trữ để đảm B thi hành án của:

+ Trần Như Hoàng B: 2.000.000 đồng;

+ Võ Thiện K1: 1.000.000 đồng;

(theo giấy nộp tiền vào tài khoản tại Kho bạc Nhà nước Ngũ Hành Sơn ngày 04/02/2020).

- Đề nghị trả lại cho chủ sở hữu:

+ Trần Như Hoàng B: 01 CMND số: 201638927 và 01 thẻ visa techcombank mang tên Trần Như Hoàng B; 01 xe mô tô hiệu nhãn hiệu SH150i màu trắng đen, biển kiểm soát 43C1-43146, số khung: RLHKF1419DY070278, số máy: KF14E0060309;

+ Võ Thiện K1: 01 CMND số: 206081897 và 01 Giấy phép lái xe số: 49016008456 mang tên Võ Thiện K1; 01 điện thoại di động có chữ Samsung màu xanh gắn sim 0369649334; Imel 1: 357966108132052; Imel 2: 357967108132050; 01 xe mô tô nhãn hiệu Air Blade màu đỏ biển kiểm soát 43K1-06754, số khung: 245402, số máy: 1032656; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 43K1-067.54 mang tên Đặng Công T3 (xe này do K1 mua lại của tiệm mua bán xe máy cũ Bảo Long An, địa chỉ số 04 Nguyễn Thiện Kế, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng vào tháng 01/2019 chưa sang tên đổi chủ).

Những người tham gia phiên tòa không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trAh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 07 giờ 50 phút ngày 26/12/2019, tại phòng số 901 khách sạn Majestic địa chỉ số 50 đường Phan Tôn, phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Đà Nẵng bắt quả tang Trần Như Hoàng B và Võ Thiện K1 có hành vi tàng trữ trái phép 1,715 gam ma túy, loại MDMA và Methamphetamin với mục đích để sử dụng.

[3] Hành vi trên của các bị cáo Trần Như Hoàng B và Võ Thiện K1 đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như cáo trạng số 23/CT- VKS- NHST, ngày 19/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Như Hoàng B và Võ Thiện K1 thì thấy: Các bị cáo tham gia có tính chất đồng phạm nhưng không có sự tổ chức, cấu kết, không có sự bàn bạc cụ thể mà chỉ mang tính chất đồng phạm giản đơn. Mặc dù các bị cáo biết rõ tác hại của ma túy và pháp luật nghiêm cấm nhưng các bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm tới chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân làm lây lan căn bệnh thế kỷ. Hành vi trên của các bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an của xã hội, gây bất bình trong nhân dân trên địa bàn TP. Đà Nẵng nói chung và trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn nói riêng. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc để giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét hành vi phạm tội, vai trò và nhân thân của từng bị cáo thì thấy:

Đối với Trần Như Hoàng B là một thanh niên có tuổi đời còn trẻ nhưng không lo lao động, làm ăn chính đáng mà cố tình vi phạm pháp luật, lẽ ra bị cáo phải ý thức được pháp luật cũng như tác hại và nguy hiểm của chất ma túy mà Nhà nước đã ban hành các văn bản nhằm tuyên truyền phòng, chống ma túy cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của ma túy, nhưng bị cáo đã không thấy được tác hại của ma túy để tránh xa. Hành vi phạm tội của bị cáo B là rất nguy hiểm, xem thường pháp luật, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp có 02 chất ma túy trở lên là tình tiết định khung được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử xét cần xử phạt bị cáo nghiêm minh, xử cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe các đối tượng khác có hành vi tương tự.

Song xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo B đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình.

Đối với Võ Thiện K1 do nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân nên đã cùng Trần Như Hoàng B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, lẽ ra bị cáo phải ý thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật để ngăn cản bị cáo B không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng khi bị cáo B rủ bị cáo đi mua ma túy thì bị cáo đã đồng ý đi cùng bị cáo B, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp có 02 chất ma túy trở lên là tình tiết định khung được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần xử cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian theo đúng tính chất vụ án mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo K1 đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một mức hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Đối với Trần Thị Hồng L1 và Phan Thị Thái T1 tuy không đồng phạm với Trần Như Hoàng B và Võ Thiện K1 về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt hành chính là có căn cứ.

Đối với Công ty TNHH MTV Sydney New Hotel (khách sạn Majestic) do ông Nguyễn Tiến Đ2 làm chủ sở hữu, có hành vi thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý để cho người khác lợi dụng sử dụng trái phép chất ma túy tại nơi mình quản lý. Công an TP. Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nên không đề cập đến.

Đối với nam thanh niên bán ma túy cho Trần Như Hoàng B và Võ Thiện K1, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[5] Xét về vật chứng: Đối với 01 gói nylon có kích thước (4x7cm) bên trong có chứa 3,5 viên nén màu vàng (ký hiệu C, đã được niêm phong hoàn trả lại sau giám định, có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Đà Nẵng) và 01 sim điện thoại số 0905690011 của Trần Như Hoàng B. Xét cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone số Imel 1: 353906103448891; Imel 2: 353906103470556 của Trần Như Hoàng B. Xét cần tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với số tiền 2.000.000 đồng thu giữ của Trần Như Hoàng B và 1.000.000 đồng thu giữ của Võ Thiện K1. Xét cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 CMND số: 201638927 và 01 thẻ visa techcombank mang tên Trần Như Hoàng B; 01 xe mô tô hiệu nhãn hiệu SH150i màu trắng đen, biển kiểm soát 43C1-43146, số khung: RLHKF1419DY070278, số máy: KF14E0060309 của Trần Như Hoàng B. Xét cần trả lại cho Trần Như Hoàng B.

Đối với 01 CMND số: 206081897 và 01 Giấy phép lái xe số: 49016008456 mang tên Võ Thiện K1; 01 điện thoại di động có chữ Samsung màu xanh gắn sim 0369649334; Imel 1: 357966108132052; Imel 2: 357967108132050; 01 xe mô tô nhãn hiệu Air Blade màu đỏ biển kiểm soát 43K1-06754, số khung: 245402, số máy: 1032656; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 43K1-067.54 mang tên Đặng Công T3 (xe này do K1 mua lại của tiệm mua bán xe máy cũ Bảo Long An vào tháng 01/2019 chưa sang tên đổi chủ). Xét cần trả lại cho Võ Thiện K1.

[6] Hội đồng xét xử xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành S tại phiên tòa về căn cứ các điều luật áp dụng cũng như đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Các bị cáo Trần Như Hoàng B và Võ Thiện K1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Như Hoàng B 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 26/12/2019.

Xử phạt: Bị cáo Võ Thiện K1 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 26/12/2019.

Xử L1 vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 P1 bì thư trắng là mẫu giám định hoàn trả số kèm theo kết luận giám định số: 19/GĐ-MT ngày 31/12/2019 của phòng KTHS Công an TP. Đà Nẵng và 01 sim điện thoại của Trần Như Hoàng B số 0905690011 niêm phong ký hiệu B1.

Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone số Imel 1: 353906103448891; Imel 2: 353906103470556 của Trần Như Hoàng B niêm phong ký hiệu B1. Tiếp tục quy trữ số tiền 2.000.000 đồng thu giữ của Trần Như Hoàng B và 1.000.000 đồng thu giữ của Võ Thiện K1 để đảm bảo việc thi hành án.

Tuyên trả cho Trần Như Hoàng B 01 CMND số: 201638927 và 01 thẻ visa techcombank mang tên Trần Như Hoàng B; 01 xe mô tô biển kiểm soát: 43C1- 43.146; loại xe: hai bánh; số loại: SH150I; dung tích xi lanh: 152; nhãn hiệu: HONDA; màu Sơn: trắng đen; số máy: KF14E-0060309, số khung: RLHKF1419DY070278.

Tuyên trả cho Võ Thiện K1 01 CMND số: 206081897 và 01 Giấy phép lái xe số: 49016008456 mang tên Võ Thiện K1; 01 điện thoại di động có chữ Samsung màu xanh gắn sim 03969649334; Imel 1: 357966108132052; Imel 2: 357967108132050 niêm phong ký hiệu K1; 01 xe mô tô biển kiểm soát 43K1- 067.54; nhãn hiệu: HONDA; loại xe: hai bánh; màu Sơn: trắng- đỏ- đen; số loại: Air Blade; dung tích: 108; số máy: 1032656; số khung: 245402; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 43K1-067.54 mang tên Đặng Công T3. Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự Quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/3/2020 và giấy ủy nhiệm chi số 05 lập ngày 26/3/2020 của đơn vị nhận tiền Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng.

Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 11/5/2020.

Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

610
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về