Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HOÁ - TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 23/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

 Ngày 20 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Chiêm Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án ly hôn thụ lý số: 226/2020/TLST - HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2020.

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ngọc M, sinh năm 1992;

Địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện C, tỉnh Tuyên Quang (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Hà Quang M1, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện C, tỉnh Tuyên Quang (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, quan điểm trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị Ngọc M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hà Quang M1 được tự do tìm hiểu, đi đến hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán; anh chị làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện C theo quy định của pháp luật vào năm 2015. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị làm ăn, sinh sống tại thôn L, xã X, huyện C, tỉnh Tuyên Quang. Cuộc sống chung hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, không có sự chia sẻ trong cuộc sống, dẫn đến sô sát, cãi chửi nhau. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra anh chị đã được hai bên gia đình khuyên bảo nhưng mâu thuẫn vợ chồng không khắc phục được. Chị M xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể hàn gắn để quay về xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Hà Quang M1.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị sinh được 01 con chung tên là cháu Hà Nhân K, sinh ngày 13/01/2018. Chị có quan điểm đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu K và không yêu cầu anh M1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, anh Hà Quang M1 khai: Về quan hệ hôn nhân như chị M trình bày là đúng. Anh và chị M do hai bên tự nguyện tìm hiểu đã đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào năm 2015. Sau khi kết hôn anh và chị M sống tại thôn L, xã X, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do hai vợ chồng tính tình không hợp nhau, không thông cảm cho nhau trong cuộc sống, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị M xin ly hôn anh hoàn toàn nhất trí.

Quá trình chung sống vợ chồng anh chị sinh được 01 con chung tên là Hà Nhân K, sinh ngày 13/01/2018. Khi ly hôn, anh nhận trực tiếp nuôi dưỡng cháu K và không đề nghị chị M cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị M và anh M1 giữ nguyên quan điểm nêu trong bản tự khai và biên bản hòa giải tại Tòa án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án đều đảm bảo đúng quy định; Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 57, Khoản 3 Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, các Điều 35, 39, 143, 144, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” của chị Trần Thị Ngọc M. Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Trần Thị Ngọc M và anh Hà Quang M1.

- Giao cháu Hà Nhân K, sinh ngày 13/01/2018 cho chị Trần Thị Ngọc M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hà Quang M1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản và nợ chung chị Trần Thị Ngọc M và anh Hà Quang M1 đều khẳng định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết, do vậy không xem xét.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Ngọc M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (trong vụ án ly hôn) theo quy định. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng.

Chị Trần Thị Ngọc M khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang giải quyết cho chị ly hôn với anh Hà Quang M1; Anh Hà Quang M1 có hộ khẩu thường trú tại thôn L, xã X, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Căn cứ theo khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về "Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn" và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện C đã tiến hành xác M1 thu thập chứng cứ; thực hiện các thủ tục tống đạt văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

[2] Về việc xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Ngọc M và anh Hà Quang M1 có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình; có đăng ký kết hôn vào ngày 08/9/2015 tại UBND xã X, huyện C, tỉnh Tuyên Quang nên được xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã. Hội đồng xét xử thấy rằng, cuộc sống chung của vợ chồng chị M và anh M1 không có sự gắn kết, chia sẻ trong cuộc sống để xây dựng một gia đình hạnh phúc; cả hai đều đã không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ, mục đích hôn nhân không đạt được. Như vậy, căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình thì tình trạng hôn nhân của chị M và anh M1 đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Ngọc M. Anh Hà Quang M1 cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị M và anh M1.

[2.2] Về con chung: Chị Trần Thị Ngọc M và anh Hà Quang M1 có 01 con chung là cháu Hà Nhân K, sinh ngày 13/01/2018. Xét thấy hiện nay cháu K còn nhỏ, chưa đủ 36 tháng tuổi, cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ để đảm báo cho sự phát triển về tâm sinh lý của trẻ nhỏ, chị M đủ điều kiện để chăm trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu K và không nhất trí cho anh M1 trực tiếp nuôi dưỡng cháu K nên cần giao cháu Hà Nhân K cho chị Trần Thị Ngọc M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình. Anh M1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp có sự thay đổi về điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục ảnh hưởng đến quyền lợi về mọi mặt của con và các bên đương sự có yêu cầu thì Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị Ngọc M và anh Hà Quang M1 cùng thống nhất không có, nên không đề nghị Toà án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Ngọc M phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm (trong vụ án ly hôn) theo quy định tại các Điều 143, 144, 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại điều 271 và điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự .

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 ; các Điều 35, 39, 143, 144, 147, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” của chị Trần Thị Ngọc M.

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thỏa thuận thuận tình ly hôn giữa chị Trần Thị Ngọc M và anh Hà Quang M1.

2. Về con chung: Giao cháu Hà Nhân K, sinh ngày 13/01/2018 cho chị Trần Thị Ngọc M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hà Quang M1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm (trong vụ án ly hôn): Chị Trần Thị Ngọc M phải nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000đ. Chị M đã nộp tạm ứng án phí là 300.000đ theo biên lai số 0002783 ngày 26/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa nay được chuyển thành tiền án phí.

Anh Hà Quang M1 không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Ngọc M và anh Hà Quang M1 được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (M lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:23/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về