Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

 BẢN ÁN 23/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 117/2020/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2020 về tranh chấp “ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Hồng T – sinh năm 1992. Có mặt.

Nơi ĐKHKTT: Tổ 50 (tổ 114 cũ), phường H, quận L, TP Đà Nẵng. Hiện trú tại: Tổ 14 (tổ10 cũ) X, phường H, quận L, TP Đà Nẵng.

- Bị đơn: Ông Phạm Văn T – sinh năm 1988. Vắng mặt.

Trú tại: Tổ 50 (tổ 114 cũ), phường H, quận L, TP Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Lê Thị Hồng T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh Phạm Văn T kết hôn vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, quận L, TP Đà Nẵng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng tôi sống tại nhà gia đình anh T tại tổ 50 (tổ 114 cũ), phường H, quận L, TP. Đà Nẵng. Trong quá trình chung sống thì từ năm 2017 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh T không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên nhậu nhẹt rồi đánh vợ. Xét thấy mâu thuẫn đã trầm trọng nên vào năm 2018 tôi đã gửi đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn nhưng sau đó rút đơn để cho thêm anh T cơ hội. Tuy nhiên, anh T vẫn không thay đổi bản thân dẫn đến mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, từ cuối năm 2018 tôi trở về nhà cha mẹ ở Xuân Thiều sống nên vợ chồng không còn sống chung với nhau. Từ đó đến nay, người nào chỉ biết bổn phận người đó, anh T không liên lạc hay quan tâm, chăm sóc mẹ con tôi mà bỏ mặc một mình cho tôi lo con cái. Nay tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn, thực tế chúng tôi cũng không còn chung sống nên vợ chồng chỉ còn trên danh nghĩa.

- Về quan hệ con chung: Vợ chồng tôi có 02 con chung là Phạm Huyền T – sinh ngày 01.02.2012 và Phạm Khải M – sinh ngày 02.11.2015. Khi vợ chồng sống ly thân thì các cháu đều sống với tôi. Bản thân tôi là người trưc tiếp chăm lo cả về vật chất lẫn tinh thần cho con, anh T hoàn toàn không quan tâm hay có trách nhiệm, cháu T có nguyện vọng ở với tôi, cháu M còn nhỏ. Do đó, nếu Tòa án giải quyết ly hôn thì nguyện vọng của tôi là được nuôi cả hai cháu, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Tôi xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung.

* Bị đơn ông Phạm Văn T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án để giải quyết và cũng không có văn bản trình bày ý kiến.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu:

- Về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay Thẩm phán, HĐXX và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, việc giải quyết vụ án được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại BLTTDS, đảm bảo cho các đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.

- Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Quá trình tòa án thụ lý giải quyết và tại phiên tòa nguyên đơn đã có ý kiến trình bày quan điểm của mình và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 BLTTDS. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS; mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án để giải quyết và cũng không có văn bản trình bày ý kiến.

- Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà Lê Thị Hồng T được ly hôn với ông Phạm Văn T; giao 02 con chung là Phạm Huyền T – sinh ngày 01.02.2012 và Phạm Khải M – sinh ngày 02.11.2015 cho bà Lê Thị Hồng T trực tiếp nuôi dưỡng, bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét; tài sản chung, nợ chung bà Lê Thị Hồng T khai nhận không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp về ly hôn giữa nguyên đơn bà Lê Thị Hồng T với bị đơn ông Phạm Văn T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định tại các Điều 208, 209, 210 và 211 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, nguyên đơn không xuất trình thêm chứng cứ mới.

Bị đơn ông Phạm Văn T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa ông Phạm Văn T vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xử vắng mặt ông Phạm Văn T.

[2] Về nội dung tranh chấp: Xét yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Hồng T đối với ông Phạm Văn T thì thấy:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Hồng T và ông Phạm Văn T đăng ký kết hôn năm 2011 tại UBND phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng, số 161/2011, quyển số 01/2011, hôn nhân tự nguyện. Trong quá trình chung sống bà Lê Thị Hồng T cho rằng từ năm 2017 vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng do bất đồng quan điểm sống, ông T không có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng không sống chung từ năm 2018 đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng ông Phạm Văn T vắng mặt không có lý do, bỏ mặc cho tình trạng hôn nhân của hai vợ chồng ngày càng trầm trọng.

HĐXX xét thấy, vào năm 2018 bà Lê Thị Hồng T đã yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn nhưng sau đó rút đơn khởi kiện và Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã đình chỉ giải quyết vụ án theo Quyết định số 159/2018/QĐST-HNGĐ ngày 01.11.2018. Ngoài ra, chính quyền địa phương nơi ông Phạm Văn T cư trú là tổ 50 (tổ 114 cũ), phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng cũng xác nhận việc ông T và bà T từ năm 2018 không chung sống với nhau, ông T sống tại tổ 50 (tổ 114 cũ), phường Hòa Hiệp Nam, còn bà T sống tại tổ 10, phường Hòa Hiệp Nam là sự thật. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa ông T và bà T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Lê Thị Hồng T là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về quan hệ con chung: Bà Lê Thị Hồng T khai nhận bà và ông Phạm Văn T có 02 con chung là Phạm Huyền T – sinh ngày 01.02.2012 và Phạm Khải M – sinh ngày 02.11.2015.

HĐXX xét thấy khi ông T, bà T xảy ra mâu thuẫn, không sống chung với nhau thì bà T là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con; ông T không có văn bản trình bày ý kiến, tại phiên tòa ông T không có mặt để trình bày nguyện vọng của mình về việc nuôi con chung, cũng như không chứng M được điều kiện nuôi con. Cháu Phạm Huyền T có nguyện vọng ở với mẹ; cháu Phạm Khải M hiện còn nhỏ nên rất cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Hồng T về việc nuôi con, giao các cháu Phạm Huyền T và Phạm Khải M cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Bà Lê Thị Hồng T không yêu cầu cấp dưỡng nên HĐXX không xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị Hồng T khai nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Nếu sau này bà Lê Thị Hồng T và ông Phạm Văn T có tranh chấp về tài sản chung, nợ chung thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác nếu có yêu cầu.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên HĐXX chấp nhận.

[3] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Án phí ly hôn 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), bà Lê Thị Hồng T phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: - Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân, gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

I. Chấp nhận đơn khởi kiện về việc Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôncủa bà Lê Thị Hồng T đối với ông Phạm Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Lê Thị Hồng T được ly hôn ông Phạm Văn T.

2. Về quan hệ con chung: Giao các con chung Phạm Huyền T – sinh ngày 01.02.2012 và Phạm Khải M – sinh ngày 02.11.2015 cho bà Lê Thị Hồng T trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Phạm Văn T không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Các bên đương sự có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi vì lợi ích con chung, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị Hồng T khai nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

II. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Án phí ly hôn là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), bà Lê Thị Hồng T phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0004324 ngày 27.4.2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Bà Lê Thị Hồng T đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

III. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06, 07, 07a và 09 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:23/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về