Bản án 23/2019/HS-ST ngày 22/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN - TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 22/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Ngọc H, sinh ngày 16/12/1992 tại Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn R, xã M, thành phố L, tỉnh L; nghề nghiệp: Không; trinh độ học vấn: 11/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Hữu H và bà Hoàng Thị N; vợ con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2018 cho đến nay. Có mặt.

2. Hà Xuân L, sinh ngày 01/01/1996 tại Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ a, khối b, thị trấn C, huyện B, tỉnh L; nghề nghiệp: Không; trinh độ học vấn: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn P và bà Luân Thị G; Vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Tại bản án số 66/2017/HSST ngày 18/9/2017, Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 06 tháng tù, đã chấp hành xong ngày 30/11/2017; nhân thân: Ngày 21/8/2012 Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối mất trật tự công cộng (tiền sự đã được xóa); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2018 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 01/4/2018, Hà Xuân L, Hoàng Ngọc H và Hoàng Minh T đến thuê phòng a khách sạn T, số b, đường N, phường Đ, thành phố L. Đến khoảng 04 giờ sáng cùng ngày Hà Xuân L rủ Mã Viết T đến phòng nghỉ đang thuê. Khoảng 11 giờ cùng ngày, Hoàng Ngọc H nói với Hà Xuân L “lấy ít đồ về chơi”, và đưa cho Hà Xuân L 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), Hà Xuân L hiểu là Hoàng Ngọc H rủ mua 500.000đ ma túy về sử dụng, Hà Xuân L đồng ý và sử dụng điện thoại nhãn hiệu Samsung màu đen gọi điện thoại cho Nguyễn Hữu L, hỏi mua 02 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá. Hà Xuân L đưa 500.000 đồng của Hoàng Ngọc H và điện thoại của mình cho Mã Viết T và bảo ra khu vực phía sau bưu điện tỉnh Lạng Sơn lấy ma túy. Đến khoảng 12 giờ, Mã Viết T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12H1-8709 của mình đi mua ma túy, sau khi mua ma túy xong Mã Viết T quay lại phòng a khách sạn T. Hà Xuân L lấy chai nhựa có sẵn ra gắn vòi hút vào rồi cùng Mã Viết T, Hoàng Ngọc H và Hoàng Minh T sử dụng một phần số ma túy vừa mua được. Số ma túy còn lại gồm 01 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng đựng trong túi nilon, Mã Viết T cất giấu vào túi quần bên phải phía trước đang mặc. Vào hồi 13 giờ 55 phút ngày 01/4/2018, lực lượng Công an thành phố Lạng Sơn kiểm tra và lập biên bản bắt quả tang Mã Viết T, thu giữ ma túy trên người và các tang vật. Khoảng 19 giờ 20 phút ngày 01/4/2018, Cơ quan điều tra đã bắt giữ được đối tượng Nguyễn Hữu L.

Trong quá trình điều tra vụ án, Hoàng Ngọc H và Hà Xuân L không có mặt tại địa phương nên cơ quan công an không bắt được, đã ra lệnh truy nã. Ngày 09/12/2018 Hoàng Ngọc H, Hà Xuân L đến Cơ quan Công an thành phố Lạng Sơn đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

- Tại bản kết luận giám định số 136/KL-PC54 ngày 04/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: 01 (một) viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng và gửi giám định đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,220 gam (đã trừ bì).

Bản Cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 24/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo Hoàng Ngọc H và Hà Xuân L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đúng như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Đối với hành vi phạm tội của Nguyễn Hữu L, Mã Viết T đã bị xử lý trong vụ án khác, tại bản án số 131/2018/HS-ST ngày 23/8/2018, Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn đã xét xử Nguyễn Hữu L về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự, Mã Viết T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại các lời khai có trong hồ sơ Hoàng Minh T khai nhận: Trưa ngày 01/4/2018 tại phòng a khách sạn T, T được cùng H, L, T sử dụng trái phép chất ma túy dưới hình thức hít và ngay sau đó cả nhóm đã bị lực lượng Công an thành phố đã bắt quả tang và bản thân đã bị công an thành phố ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy này.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên nội dung truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Hoàng Ngọc H và Hà Xuân L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc H từ 12 tháng đến 15 tháng tù, xử phạt bị cáo Hà Xuân L từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo vì các bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản. Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Phần tranh luận các bị cáo không tranh luận gì, lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Hoàng Ngọc H và Hà Xuân L đều thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Methamphetamine để sử dụng. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 13 giờ 55 phút ngày 01/4/2018 tại phòng a khách sạn T, số b đường N, phường Đ, thành phố L, Hoàng Ngọc H, Hà Xuân L có hành vi tàng trữ trái phép 0,220 gam chất ma túy Methamphetamine để sử dụng. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố các bị cáo Hoàng Ngọc H và Hà Xuân L là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Các bị cao nhân thưc rõ các hoạt động về ma tuy là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới sức khỏe, thiệt hại về kinh tế của cá nhân và gia đình, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nhưng các bị cáo vân cố tình thực hiện. Tuy nhiên, để có một mức án phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội cần xem xét toàn diện các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân và vai trò của từng bị cáo trong vụ án.

[4] Về nhân thân: Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo Hoàng Ngọc H là người chưa có tiền án, tiền sự, gia đình có thờ cúng liệt sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bị cáo Hà Xuân L đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng và năm 2017 bị xét xử về tội Buôn lậu nhưng bị cáo không có ý thức tu dưỡng rèn luyện, lấy đó làm bài học cho bản thân lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Hoàng Ngọc H không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo Hà Xuân L bị Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 06 tháng tù về tội Buôn lậu, bị cáo đã chấp hành hình phạt xong nhưng chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do cố ý, lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi các bị cáo ra đầu thú đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Xét vai trò của các bị cáo: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, để cá thể hóa trách nhiệm hình sự cần xem xét, đánh giá hành vi, vai trò cũng như sự tham gia phạm tội của từng bị cáo. Bị cáo Hoàng Ngọc H là người rủ rê, khởi xướng việc sử dụng ma túy và đưa tiền cho Hà Xuân L để mua ma túy, còn Hà Xuân L là người gọi điện thoại liên lạc với người bán ma túy, đưa điện thoại của bản thân và tiền của bị cáo Hoàng Ngọc H cho Mã Viết T đi mua ma túy. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và vai trò của từng bị cáo, xét thấy cả hai bị cáo đều có một tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, riêng bị cáo Hà Xuân L có một tình tiết tăng nặng, vì vậy bị cáo Hà Xuân L phải chịu hình phạt nghiêm khắc hơn. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, Hội đồng xét xử quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đó là cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định như vậy mới đủ để cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần răn đe và phòng ngừa tội phạm tại địa phương. Do các bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Đã xử lý trong vụ án Nguyễn Hữu L, Mã Viết T nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Đối với hành vi của Nguyễn Hữu L, Mã Viết T đã bị xét xử trong vụ án khác, Hoàng Minh T đã bị xử phạt hành chính theo đúng quy định nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[10] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

[11] Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 đối với bị cáo Hoàng Ngọc H, Hà Xuân L; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 đối với bị cáo Hà Xuân L;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án đối với bị cáo Hoàng Ngọc H, Hà Xuân L.

1. Tuyên bố các bị cáo Hoàng Ngọc H và Hà Xuân L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc H 01 (một) năm tù, thời chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 09/12/2018.

Xử phạt bị cáo Hà Xuân L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 09/12/2018

3. Về án phí: Bị cáo Hoàng Ngọc H và Hà Xuân L mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, sung Ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 22/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về