TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 23/2019/HS-PT NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 201/2018/TLPT-HS ngày 19 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Khắc N. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 284/2018/HS-ST ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố T.
Họ và tên bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Khắc N, sinh năm 1979 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: Số X, đường H, Phường Y, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 5/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn B (đã chết) và bà Lê Thị T (đã chết); có vợ là Trần Thị Thu T1 (đã ly hôn); tiền án: Ngày 23/9/2015, Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An xử phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2015/HS-ST; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15/11/1999, Tòa án nhân dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân”; ngày 19/7/2001, Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; ngày 03/9/2003, Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 24/5/2006, Tòa án nhân dân quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị bắt tạm giam từ ngày 26/6/2018 đến nay; có mặt.
Ngoài ra, còn có 01 bị hại, 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 18/6/2018, Nguyễn Khắc N điều khiển xe mô tô biển số 61Z – 26X đi đến khu B, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương tìm tài sản để trộm cắp. Khi đến khu nhà trọ tại địa chỉ số A, khu B, phường H, N đậu xe mô tô trước cổng và đi bộ vào trong khu nhà trọ , đến phòng tr số 14 do ông Nguyễn Quang V thuê, N nhìn thấy cửa phòng tr không khóa và không có người xung quanh nên N vào phòng trọ , nhìn thấy trên bàn có 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu HP Probook 4440S màu xám nên N lấy trộm rồi đi bộ ra cổng khu nhà tr và điều khiển xe mô tô đến huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm nơi tiêu thụ tài sản. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, N đi đến cửa hàng điện máy H (do ông Trịnh Văn H làm chủ) bán máy tính vừa trộm được cho ông H với giá 1.500.000 (một triệu năm trăm nghìn) đồng.
Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, bà Nguyễn Thị An S là bạn cùng phòng với ông Nguyễn Quang V phát hiện bị mất trộm máy tính nên gọi điện thoại báo cho ông V biết. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, ông V trình báo Công an phường H về việc bị mất tài sản, đồng thời ông V cung cấp đoạn camera có hình ảnh của người đã lấy trộm máy tính cho Câu lạc bộ Phòng chống tội phạm phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Đến khoảng 10 giờ ngày 26/6/2018, khi N đang điều khiển xe mô tô đến khu Y, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương để thăm một người bạn thì bị ông Nguyễn Hoài N1 (là thành viên của Câu lạc bộ Phòng chống tội phạm phường P) phát hiện, bắt giữ và giao cho Công an phường H. Quá trình điều tra, N đã thừa nhận hành vi phạm tội.
Bản Kết luận định giá tài sản số 216/KLTS-TTHS ngày 27/6/2018, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố T kết luận: 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu HP Probook 4440S màu xám có giá là 6.000.000 (sáu triệu) đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 284/2018/HS-ST ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố T đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khắc N phạm tội “trộm cắp tài sản”.
Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc N 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/6/2018.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/11/2018, bị cáo Nguyễn Khắc N có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt hoặc xin hưởng án treo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Tội danh, điều luật mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, bị cáo có nhân thân xấu. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xác định nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo mức án nhẹ nhất vì bị cáo bị bệnh, sức khỏe yếu, bị cáo hứa sẽ không tái phạm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Đơn kháng cáo của bị cáo thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai của bị cáo thống nhất với nội dung vụ án đã nêu trên, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 18/6/2018, tại khu nhà trọ địa chỉ số A, khu B, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Khắc N đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu HP Probook 4440S màu xám của bị hại Nguyễn Quang V. Kết luận định giá tài sản xác định máy tính xách tay nêu trên trị giá là 6.000.000 (sáu triệu) đồng.
[3]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản hợp pháp của cá nhân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà bị cáo đã thực hiện. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, thể hiện bị cáo có ý thức xem thường pháp luật và hình phạt của những bản án trước chưa đủ sức răn đe, giáo dục đối với bị cáo. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là không nặng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, không có cơ sở giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo là phù hợp.
[5]. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6]. Án phí hình sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Khắc N. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 284/2018/HS-ST ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố T:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc N 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/6/2018.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo Nguyễn Khắc N phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 23/2019/HS-PT ngày 30/01/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 23/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về