Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 23/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử công khai vụ án thụ lý số 873/2018/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 05 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 43/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 05 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Hồng N, sinh năm 1990.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1986.

Đồng trú tại: Ấp 8, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai. (Chị N có mặt, anh D vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 28 tháng 11 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như lời khai tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Vũ Thị Hồng N trình bày:

Chị và anh D tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2010 có tổ chức lễ cưới, và làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai hôn nhân lần đầu, tự nguyện.

Sau khi cưới vợ chồng chung sống không hạnh phúc do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh D thường xuyên đánh đập chửi bới chị, vợ chồng thường xuyên cãi vã, anh D không lo làm ăn hay quan tâm đến gia đình. Từ tháng 12/2018 vợ chồng chị sống ly thân, anh D bỏ nhà đi lang thang, anh D đi đâu làm gì chị không biết. Lâu lâu anh D có trở về thăm các con. Từ khi sống ly thân cho đến nay anh chị không gặp nhau để bàn bạc đoàn tụ. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh D ly hôn.

Con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Tường V, sinh ngày 17/9/2010 và Nguyễn Vũ Tường V, sinh ngày 06/11/2016. Chị đề nghị được nuôi cháu V và cháu V sau khi ly hôn, không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Nguyễn Văn D đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không đến Tòa làm việc nên không ghi được lời khai và không tiến hành hòa giải được.

Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành:

Thẩm phán thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định tại Điều 48 và Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự, việc thu thập chứng cứ thực hiện đúng theo điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đảm bảo đúng trình tự theo các Điều 222 đến 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: nguyên đơn thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo qui định các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo qui định Điều 70,72 Bộ Luật tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết vụ án: đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn chị N. Về con chung: giao cháuV, cháu V cho chị N nuôi dưỡng, tạm thời anh D không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về việc vắng mặt của đương sự: Anh D không đến tham gia phiên tòa mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ đến lần thứ hai, nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh D.

[2] Về công bố chứng cứ: Tất cả các chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được Tòa án thông báo, công bố tại các phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và photo, thông báo cho các đương sự theo quy định pháp luật.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh D tự nguyện xây dựng gia đình với nhau vào năm 2010 có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện L (số 69 ngày 22/6/2010) nên được xem là hôn nhân hợp pháp.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh D đã đến mức trầm trọng, vợ chồng tự sống ly thân từ tháng 12/2018 cho đến nay mà không bàn bạc đoàn tụ được, chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên cần căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N, xử cho chị N được ly hôn anh D.

[4]Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Tường V, sinh ngày 17/9/2010 và Nguyễn Vũ Tường V, sinh ngày 06/11/2016. Ly hôn chị N đề nghị được nuôi cháu V và cháu V, không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, hiện cháu V trên 7 tuổi, qua tham khảo ý kiến cháu có nguyện vọng được sống với chị N, cháu V còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi, thời gian vợ chồng sống ly thân các cháu được chị N nuôi dưỡng tốt nên cần giao cháu V, cháu V cho chị N nuôi dưỡng theo nguyện vọng của các cháu là phù hợp Điều 81, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Chị N nuôi con không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nên không xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N khai không có, nên không xem xét.

[6] Về án phí: Theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với nhận định nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 147, 157, 227, 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn chị Vũ Thị Hồng N, xử cho chị Vũ Thị Hồng N được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Vũ Tường V, sinh ngày 17/9/2010 và Nguyễn Vũ Tường V, sinh ngày 06/11/2016 cho chị Vũ Thị Hồng N trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm thời anh Nguyễn Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Văn D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Khi cần thiết các đương sự được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không xem xét.

4. Về án phí: Chị Vũ Thị Hồng N phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001012 ngày 21/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành. Chị N đã nộp đủ án phí.

5. Chị Vũ Thị Hồng N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HNGĐ-ST ngày 18/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:23/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về