Bản án 23/2018/HS-ST ngày 24/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 23/2018/HS-ST NGÀY 24/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 25/2018/HSST ngày 16 tháng 03  năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 27/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2018.

Đối với bị cáo:

NGUYỄN MINH H - Sinh năm: 1996; tại: tỉnh Bình Phước; HKTT: Thôn 5, xã A, huyện B, tỉnh Bình Phước; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 06/12; con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1964 và bà Hồ Thị Diệu T, sinh năm 1972; Bị cáo có 02(hai) người em, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2007, bị cáo là con cả trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 01/12/2017 đến ngày 12/02/2018. Ngày 12/02/2018 được tại ngoại.(có mặt)

Bị hại: Đoàn Thị H, sinh năm 1973(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp PT, xã HP, huyện B, tỉnh Bình Phước

Người  có  quyền  lợi  nghĩa  vụ  liên  quan:  Lê  Thanh  K,  sinh  năm 03/4/2003(có mặt). Người giám hộ cho Lê Thanh K bà Lê Thị N, sinh năm 1983(có mặt).

Địa chỉ: Ấp TT, xã PT, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 20/10/2017, Nguyễn Minh H và Lê Thanh K,  sinh ngày 03/4/2003 đi đến nhà Vũ Văn T thuộc ấp Tân Lập, xã Phước Thiện, huyện B, tỉnh Bình Phước để chơi. Tại đây, Vũ Văn T rủ Hoàng và Lê Thanh K đi trộm cắp tài sản thì cả hai đồng ý. Sau đó Vũ Văn T điều khiển xe mô tô Dream, màu nâu, không biển kiểm soát mang theo 01 kìm cộng lực hiệu C-Mart màu xanh, dài 46cm và giao cho Hoàng xe mô tô hiệu Wave màu đen, không biển kiểm soát chở Lê Thanh K đi đến khu vực ấp PT, xã HP để tìm tài sản trộm cắp. Khi đi đến nhà bà Đoàn Thị H, cả ba thấy cổng và cửa nhà khóa nhưng không có người trông coi nên dựng xe ở vườn tiêu cách nhà bà H khoảng 30m. Sau đó, Vũ Văn T, Hoàng và Lê Thanh K đi vào chỗ nhà kho. Vũ Văn T dùng kìm cộng lực cắt 0,5m2 lưới rào B40 của nhà kho rồi tiếp tục chui vào trong cắt khóa cửa nhà kho và cùng Lê Thanh K vào trong nhà kho tìm tài sản trộm cắp, còn Hoàng đứng bên ngoài cảnh giới. Khi vào nhà kho thì Vũ Văn T và Lê Thanh K phát hiện 01 máy phun thuốc sâu hiệu Vikyno 5.5 màu đỏ; một máy cắt mini hiệu Grown màu xám xanh; 01 can nhựa màu trắng thể tích 20 lít, bên trong đựng 10 lít xăng A92; 01 can nhựa màu trắng thể tích 05 lít, bên trong đựng 05 lít xăng A92. Vũ Văn T và Lê Thanh K lấy số tài sản trên ra chỗ Nguyễn Minh H đứng. Sau đó cả ba mang tài sản vừa lấy được ra chỗ để xe, chuẩn bị mang đi tiêu thụ thì bị người dân phát hiện bắt quả tang Nguyễn Minh H và Lê Thanh K giao cho Cơ quan Công an, còn Vũ Văn T điều khiển xe Dream và cầm can nhựa màu trắng thể tích 05 lít, bên trong đựng 05 lít xăng A92 bỏ trốn.

Tại kết luận định giá tài sản số: 75/2017 ngày 23/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B xác định giá trị tài sản gồm: 01 máy phun thuốc sâu hiệu Vikyno 5.5, màu đỏ; một máy cắt mini hiệu Grown, màu xám xanh, một can nhựa hiệu Trường An, màu trắng thể tích 20 lít bên trong chứa 10 lít xăng loại A92; một can nhựa màu trắng thể tích 05 lít, bên trong chứa 5 lít xăng A92 có tổng trị giá 2.742.300đ (hai triệu bảy trăm bốn hai nghìn ba trăm đồng).

Cáo trạng số 15/CT-VKS-BĐ ngày 14 tháng 03 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B giữ quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa, sau khi xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa vẫn khẳng định bị cáo có hành vi như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị: Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, và ấn định thời gian thử thách gấp đôi

Tại phiên tòa Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã công bố, bị cáo không có tranh luận gì với bản luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo đúng quyền và lợi ích hợp pháp của Bị cáo, Bị hại và những người tham gia tố tụng khác. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng.

Về nội dung: Khoảng 13 giờ ngày 20/10/2017, Vũ Văn T, Nguyễn Minh H và Lê Thanh K phát hiện không có người trông coi đã lén lút đột nhập vào nhà kho của bà Đoàn Thị H. Vũ Văn T dung kìm cộng lực mang theo cắt lưới B40 và chui vào nhà kho, cắt ổ khóa nhà kho lấy trộm 01 máy phun thuốc sâu hiệu Vikyno 5.5 màu đỏ; một máy cắt mini hiệu Grown màu xám xanh; 01 can nhựa màu trắng thể tích 20 lít, bên trong đựng 10 lít xăng A92; 01 can nhựa màu trắng thể tích 05 lít, bên trong đựng 05 lít xăng A92. Khi Vũ Văn T, Nguyễn Minh H và Lê Thanh K chuẩn bị mang số tài sản trên chất lên xe thì bị người dân phát hiện bắt quả tang. Tại bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng giá trị tài sản bị chiếm đoạt có tổng trị giá 2.742.300đ (hai triệu bảy trăm bốn hai nghìn ba trăm đồng). Hành vi của Nguyễn Minh H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố là đúng hành vi, đúng pháp luật..

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được pháp luật  bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây hoang mang cho dư luận xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, có sức khỏe, nhận thức rõ hành vi lợi dụng nơi vắng vẻ lén lút đột nhập vào nhà kho chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích tư lợi, muốn có tiền để tiêu sài cá nhân mà bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình, điều này chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Do vậy cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội nhằm răn đe cải tạo giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng tài sản của người khác và phòng ngừa chung.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó Vũ Văn T là người khởi xướng, là người chuẩn bị công cụ, phương tiện và thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Nguyễn Minh H sau khi nghe Vũ Văn T rủ đi trộm cắp, bị cáo đã đồng ý tham gia với vai trò giúp sức làm nhiệm vụ cảnh giới cho Vũ Văn T và Lê Thanh K vào nhà của bị hại trộm cắp, bị cáo tham gia với vai trò thứ yếu. Do vậy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương ứng mức độ hành vi của bị cáo.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hai có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, chỉ cần giao bị cáo về chính quyền địa phương giám sát giáo dục là đủ, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đối với Lê Thanh K, là người cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên tại thời điểm thực hiện hành vi, Lê Thanh K chưa đủ 16 tuổi nên Cơ quan Công an huyện B đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Lê Thanh K là đúng quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Vũ Văn T đã bỏ trốn. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra quyết định truy nã đối với Vũ Văn T, khi nào bắt được sẽ xử lý sau

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì, nên không đặt ra

Xét sự đề xuất của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B về mức hình phạt và các vấn đề khác là có cơ sở cần được chấp nhận.

Về vật chứng: 01(một) máy phun thuốc sâu hiệu VIKYNO 5.5 màu đỏ, 01(một) máy cắt mini hiệu Grown, màu xám xanh, một can nhựa hiệu Trường An, màu trắng thể tích 20 lít bên trong chứa 10 lít xăng loại A92, ngày 28/1/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho bà Đoàn Thị H là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

01(một) kìm cộng lực, hiệu C-Mart, màu xanh, dài 46cm là công cụ để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. 01(một) xe mô tô Wave màu đen, không biển kiểm soát, Nguyễn Minh H điều khiển đi trộm cắp tài sản. Qua quá trình điều tra, Nguyễn Minh H khai nhận đây là xe do Vũ Văn T đưa cho Nguyễn Minh H làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã trưng cầu giám định, không xác định được chủ sở hữu, hiện Vũ Văn T đang bỏ trốn, Cơ quan điều tratiếp  tục xác minh xử lý sau, Hội đồng xét xử không xét. 01(một) xe mô tô Dream màu nâu, không biển kiểm soát, Vũ Văn T dùng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, 01 can nhựa màu trắng, thể tích 5 lít, bên trong đựng 5 lít xăng A92, cơ quan điều tra không thu hồi được, khi nào thu hồi được sẽ xử lý sau là đúng quy định pháp luật. Hội đồng xét xử không xét.

Về án phí:

Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 45; Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Xử phạt Nguyễn Minh H 09(chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18(mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Minh H về UBND xã A, huyện B, tỉnh Bình Phước giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 kìm cộng lực, hiệu C-Mart, màu xanh, dài 46cm (Số vật chứng đã được giao nhận cho Chi cục thi hành án dân sự dân sự huyện B theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/02/2018).

Về án phí:

Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. 

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai tram nghìn đồng) án phí hình sơ thẩm

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2018/HS-ST ngày 24/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:23/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về