Bản án 23/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH N

BẢN ÁN 23/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện G tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 106/2018/TLST-HNGĐ ngày 4 tháng 9 năm 2018 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2018/QĐXX-ST ngày 19 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Bùi Thị L, sinh năm 1965.

Đa chỉ: Số nhà 134, đường Lê Văn H, tổ 15, phường Y, thành phố P, tỉnh G.

Bị đơn: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1957. Địa chỉ: Thôn M, xã G, huyện G, tỉnh N.

Bà L vắng mặt - có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Ông Đ có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 06 tháng 7 năm 2018 và bản tự khai nguyên đơn bà Bùi Thị L trình bày: Giữa bà Bùi Thị L và ông Trần Văn Đ tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, đã tiến hành đăng ký kết hôn ngày 18/3/2016 tại Uỷ ban nhân dân xã G, huyện G, tỉnh N. Sau khi kết hôn vî chång ông bà chung sống tại xã G, huyện G, tỉnh N, vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc được thời gian khoảng 02 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng theo bà L là do hai người có quá nhiều bất đồng trong cuộc sống, có nhiều hiểu lầm, không tôn trọng lẫn nhau, nhất là không thống nhất trong việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình. Bà L xác định tình cảm vợ chồng hiện nay đã mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm không còn nên làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh N giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Văn Đ.

Về con chung: Bà L trình bày giữa bà và ông Trần Văn Đ trong thời gian chung sống vợ chồng không có con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Bà L khai vợ chồng không có tài sản và công nợ chung, do vậy không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 10/9/2018, quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Văn Đ trình bầy: Việc kết hôn giữa ông và bà Bùi Thị L, quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc rồi xẩy ra mâu thuẫn đúng như bà Lý đã trình bầy nêu trên. Ông Đ thừa nhận vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm không còn nay bà L có đơn xin ly hôn, ông đồng ý ly hôn.

Về con chung: Ông Trần Văn Đ trình bầy vợ chông không có con chung. Về tài sản và công nợ chung: Ông Trần Văn Đ xác định không có.

Tại phiên tòa ông Đ có mặt vẫn giữ nguyên quan điểm nêu trên của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện ý kiến của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là ông Trần Văn Đ có địa chỉ: Thôn M, xã G, huyện G, tỉnh N. Vì vậy việc Tòa án nhân dân huyện G áp dụng Điều 28; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự để thụ lý giải quyết vụ án là đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn vắng mặt lần thứ nhất tại phiên tòa nhưng có lý do chính đáng vì có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử là đúng luật định.

Về quan hệ hôn nhân:

Hôn nhân của bà Bùi Thị L và ông Trần Văn Đ hoµn toµn hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn hai người đã sống hoà thuận hạnh phúc một thời gian sau đó hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do do hai người có quá nhiều bất đồng trong cuộc sống, có nhiều hiểu lầm, không tôn trọng lẫn nhau, nhất là không thống nhất trong việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình. Bản thân ông Đương cũng thừa nhận vợ chông không còn tình cảm, không thể tiếp tục chung sống. Do đó có căn cứ xác định rằng mâu thuẫn vợ chồng bà Bùi Thị L và ông Trần Văn Đ đã trở nên trầm trọng, không thể tiếp tục duy trì cuộc sống chung, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của bà Bùi Thị L xử cho bà được ly hôn ông Trần Văn Đ là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về con chung. Bà Bùi Thị L và ông Trần Văn Đ không có con chung.

Về tài sản và công nợ chung: Các bên đều thừa nhận không có, không đề nghị Tòa án xem xét về quan hệ tài sản và công nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà Bùi Thị L phải nộp án phÝ s¬ thÈm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, tuyên xử:

1. Xử cho bà Bùi Thị L được ly hôn ông Trần Văn Đ.

2. Về án phí:

Bà Bùi Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn. Được khấu trừ vào sè tiền tạm ứng án phí bà L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân huyện G theo biên lai số AA/2013/0001107 ngày 04/9/2018.

Án xử công khai sơ thẩm bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:23/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Viễn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về