Bản án 23/2018/HNGĐ-ST ngày 30/10/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN  HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 23/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 30/10/2018, Tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 200/2018/TLST - HNGĐ ngày 25/7/2018 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2018/QĐST-HNGĐ ngày 02/10/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2018/QĐHPT - DS ngày 16/10/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Thu H - sinh năm: 1998. (Có mặt)

Trú tại: thôn Xuân H, xã Ea Đ, huyện Krông N, Đắk L.

2. Bị đơn: Anh Trần Quốc L - sinh năm: 1994 (Vắng mặt không có lý do)

Trú tại: Thôn 1, xã Phú X, huyện Krông N, Đắk L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 16/7/2018, tại bản tự khai cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Đinh Thị Thu H trình bày: Chị và anh Trần Quốc L lấy nhau năm 2016, đến ngày 09/3/2017 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú X, huyện Krông N. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh L ăn chơi lêu lổng, không lo làm ăn và chơi cờ bạc. Anh L thường xuyên bỏ nhà đi qua đêm, về nhà còn đánh đập vợ. Mặc dù được hai bên gia đình khuyên bảo nhưng anh L vẫn không thay đổi. Hiện tại chị H và anh L đã sống ly thân từ tháng 7/2018 cho đến nay. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, nguyện vọng của chị H đề nghị Tòa án giải quyết là xin được ly hôn với anh Trần Quốc L.

Về con chung: Chị H và anh L có 01 con chung là cháu Trần Quốc Đinh Đ (sinh 15/7/2016), hiện cháu đang ở với chị H. Nếu được ly hôn nguyện vọng của chị là được chăm sóc nuôi dưỡng cháu Đ đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị H không yêu cầu giải quyết.

Đối với bị đơn anh Trần Quốc L, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh L đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên anh L không đến Tòa án để làm việc do vậy Tòa án không tiến hành làm việc và hòa giải được.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát sau khi phát biểu ý kiến đã khẳng định Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; người tham gia tố tụng dân sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án. Sau đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 9, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của chị H. Về con chung: Giao cháu Trần Quốc Đinh Đ cho chị Hoài nuôi dưỡng, anh L không phải trợ cấp nuôi con. Về tài sản chung không yêu cầu tòa án giải quyết nên không đề cập xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ pháp luật: Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS và loại việc tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

[2] Về trình tự thủ tục tố tụng: Xét thấy anh Trần Quốc L được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt do vậy HĐXX xét xử vắng mặt anh Trần Quốc L là phù hợp với điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS.

[3] Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Đinh Thị Thu H và anh Trần Quốc L là quan hệ hôn nhân hợp pháp có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật trên cơ sở tự nguyện do vậy được pháp luật bảo vệ. Trong thời gian chung sống giữa chị Đinh Thị Thu H và anh Trần Quốc L đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng theo chị H là do anh L ăn chơi lêu lổng, không lo làm ăn lại chơi cờ bạc. Anh L thường xuyên bỏ nhà đi qua đêm, về nhà còn đánh đập chị H. Mặc dù được hai bên gia đình khuyên bảo nhưng anh L vẫn không thay đổi. Chị và anh L đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2018 đến nay. HĐXX xét thấy hôn nhân của chị H và anh L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được do vậy cho chị Đinh Thị Thu H và anh Trần Quốc L ly hôn là phù hợp với Điều 56 của luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Giữa chị Đinh Thị Thu H và anh Trần Quốc L có 01 con chung là cháu Trần Quốc Đinh Đ sinh 15/7/2016. Hiện chị H đang trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, hiện tại cháu Đ chưa đủ ba tuổi và theo nguyện vọng của chị H nếu được ly hôn thì xin được nuôi cháu Đ đến tuổi trưởng thành, HĐXX xét thấy giao cháu Đ cho chị H nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là phù hợp với quy định của pháp luật và nguyện vọng của chị H. Về cấp dưỡng nuôi con chung chị H không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết. Anh L được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung là phù hợp với Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đinh Thị Thu H không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Đinh Thị Thu H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân gia đình. Điều 144, 147 BLTTDS, Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

2. Tuyên xử:

+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị Thu H.

+ Chị Đinh Thị Thu Hoài được ly hôn với anh Trần Quốc L.

+ Về con chung: Giao con chung cháu Trần Quốc Đinh Đ (sinh 15/7/2016) cho chị Đinh Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Anh Trần Quốc L được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung.

+ Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đinh Thị Thu H không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

+ Về tài sản chung: Chị Đinh Thị Thu H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị Đinh Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Chị Đinh Thị Thu H đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số AA/2017/0002742 ngày 20/7/2018 của chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Năng. Chị Đinh Thị Thu H đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2018/HNGĐ-ST ngày 30/10/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:23/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về