Bản án 23/2017/HSST ngày 30/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 23/2017/HSST NGÀY 30/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 23/2017/HSST ngày 14 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Phùng Duy T - Sinh ngày 21 tháng 8 năm 1991 tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn P, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Nùng;

Con ông Phùng Văn S và bà Liễu Thị B; vợ là Đoạn Thị H; con, có 01 người sinh năm 2010; tiền sự: Không có; tiền án: Có 01 tiền án ngày 30/6/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ngày 20/4/2016 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị bắt tạm giam, giữ từ ngày 19/7/2017, hiện tạm giam tại công an huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Phùng Văn S, sinh năm 1964, địa chỉ thôn P, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ ngày 19/7/2017 tại địa bàn thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, công an huyện Bình Gia phát hiện bị cáo Phùng Duy T có biểu hiện nghi vấn về tàng trữ ma túy, đã kiểm tra thì bị cáo dùng tay phải ném đi một 01 túi nilon màu trắng đang cầm trên tay. Công an huyện đã thu giữ túi nilon này và thấy bên trong có chứa chất bột màu trắng, đồng thời khám và thu giữ của bị cáosố tiền 1.340.000đồng, 01 xe mô tô biển kiểm soát 12K9-1841 cùng giấy đăng ký xe mang tên Phùng Văn S, 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu trắng, hiệu Mobisatr. Sau đó công an đã khám xét nơi ở của Phùng Duy T thu giữ thêm 01 gói giấy vệ sinh, bên trong có 01 gói nhỏ nilon màu trắng được buộc nịt cao su màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng ghi là ma túy Heroin, công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang để tiếp tục điều tra, làm rõ.

Tại công an huyện bị cáo Phùng Duy T khai nhận, khoảng 15 giờ ngày 19/7/2017 khi bị cáo đang ở nhà thì có Hà Anh T, sinh năm 1991 trú tại thôn T, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn gọi điện hỏi mua một gói nhỏ ma túy Heroin với giá 100.000đồng, và nói với bị cáo mang ma túy đến Ngã T, xã T, huyện B, tỉnh Lạng Sơn để bán cho Hà Anh T. Bị cáo lấy gói ma túy đã có sẵn và chia một lượng nhỏ gói lại bằng giấy vở học sinh, số còn lại cất ở nhà, rồi điều khiển xe mô tô ra chỗ hẹn để bán cho Hà Anh T, nhưng chưa kịp bán thì bị công an phát hiện bắt giữ.

Ngày 20/7/2017 công an huyện Bình Gia yêu cầu giám định 02 gói có chứa chất bột màu trắng, ghi là ma túy đã thu giữ được của bị cáo để xem xét xử lý. Tại kết luận giám định số 295/KL-PC54 ngày 21/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: Gói chất bột màu trắng niêm phong ở phong bì số 1 là chất ma túy Heroin có trọng lượng 0,030 gam (đã trừ bì); và gói chất bột màu trắng niêm phong ở phong bì số 2 cũng là chất ma túy Heroin có trong lượng 0,200 gam (đã trừ bì).

Quá trình điều tra bị cáo Phùng Duy T khai nhận bản thân nghiện ma túy, nên đã nhiều lần đi thành phố Thái Nguyên mua ma túy với một đối tượng tên là C, không biết địa chỉ cụ thể, sau khi mua được ma túy bị cáo mang về nhà chia thành các gói nhỏ với mục đích vừa sử dụng và bán lại cho những người nghiện, ngoài lần bán ma túy cho Hà Anh T bị bắt quả tang nêu trên, bị cáo còn khai đã 5 lần bán ma túy như sau:

Lần 1: Khoảng 10 giờ ngày 13/7/2017 sau khi mua được ma túy đang trên đường về, khi đến thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo vào nhà Nguyễn Khắc C, sinh năm 1981, trú tại phố T, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn để sử dụng ma túy. Thấy bị cáo có ma túy Nguyễn Khắc C đã hỏi mua một ít để sử dụng, thì bị cáo lấy một ít ma túy cho vào xi lanh của Nguyễn Khắc C có sẵn, vànhận 100.000đồng.

Lần 2, lần 3: Trong hai ngày 14 và 15/7/2017, bị cáo lại bán cho Nguyễn Khắc C, có địa chỉ như trên, mỗi ngày bán 01 gói, với giá 100.000đồng/1 gói, tổng cộng là 200.000đồng.

Lần 4: Sau khi bán ma túy cho Nguyễn Khắc C vào ngày 15/7/2017, khi bị cáo đang trên đường về thì Hà Anh T gọi điện thoại hỏi mua 02 gói ma túy và hẹn bị cáo giao ma túy tại cạnh đường Quốc lộ 1B thuộc thôn T, xã H, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, khi gặp Hà Anh T bị cáo đã bán 02 gói nhỏ ma túy đã được chia nhỏ và gói sẵn với giá 200.000đồng.

Lần 5: Khoảng 20 giờ ngày 15/7/2017, khi Hà Anh T gọi điện hỏi mua ma túy, bị cáo đã bán cho Hà Anh T 01 gói ma túy, với giá 100.000đồng. Và ngày 19/7/2017 khi đang mang ma túy để bán cho Hà Anh T thì bị phát hiện và bắt quả tang như nói trên.

Đối với Hà Anh T, Nguyễn Khắc C là người đã mua ma túy với Phùng Duy T, đều khai và thừa nhận đã được mua ma túy đúng thời gian, địa điểm, số lượng ma túy như bị cáo đã khai nhận, tuy nhiên do nghiện ma túy nên mục đích mua để sử dụng, do vậy không có căn cứ xử lý về hình sự. Ngày 23/10/2017 công an huyện Bình Gia đã xử phạt hành chính, hình thức cảnh cáo. Còn đối tượng tên C, theo lời khai của bị cáo là người bán ma túy cho bị cáo, tuy nhiên qua xác minh không xác định được, nên không có căn cứ xử lý.

Bản cáo trạng số: 22/KSĐT ngày 13/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Phùng Duy T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Về vật chứng vụ án: Hiện tạm giữ 02 phong bì thư đã niêm phong đựng ma túy Heroin; số tiền 1.340.000đồng và 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu trắng, hiệu Mobisatr của bị cáo để xử lý theo luật định.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12K9-1841 cùng giấy đăng ký xe mang tên Phùng Văn S xác định là tài sản của ông Phùng Văn S, bố đẻ bị cáo đãcho bị cáo mượn và hoàn toàn không biết bị cáo dùng đi bán ma túy, do vậy không liên quan đến việc mua bán ma túy của bị cáo, ngày 20/10/2017 công an huyện Bình Gia đã trả lại cho chủ sở hữu.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Phùng Duy T là người nghiện ma túy, để có ma túy thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo thường mua ma túy về chia thành gói nhỏ, bán lại cho những người nghiện để kiếm lời có tiền tiếp tục mua ma túy để sử dụng, căn cứ lời khai nhậncủa bị cáo đã bán tổng cộng 6 lần ma túy, lời khai này phù hợp với lời khai của những người mua ma túy với bị cáo có trong hồ sơ. Bởi bị cáo có 6 lần bán trái phép chất ma túy, nên thuộc trường hợp Phạm tội nhiều lần; và bị cáo đã có 01 tiền án về tội này bị xử phạt 7 năm tù thuộc khung hình phạt đến 15 năm tù, đây là tội rất nghiêm trọng, đến ngày 20/4/2016 mới chấp hành xong hình phạt và chưa được xóa án tích, nên thuộc trường hợp Tái phạm nguy hiểm. Tuy nhiên quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo; có bố đẻ được tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ này theo luật định. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Phùng Duy T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 194 và điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự và điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (áp dụng tình tiết có lợi cho bị cáo), xử phạt bị cáo từ 8 đến 9 năm tù. Về vật chứng cần tịch thu tiêu hủy lượng ma túy thu giữ; truy thu sung công quỹ nhà nước số tiền 600.000đồng (6 lần bán ma túy) vì bán ma túy mà có và 01 chiếc điện thoại di động vì bị cáo sử dụng để liên lạc bán ma túy. Trả lại cho bị cáo số tiền740.000đồng (sau khi đã đối trừ số tiền hiện tạm giữ). Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự, vì bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo nhận thấy hành vi bán trái phép ma túy là sai, vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, đương sự.

XÉT THẤY

Về quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra, Điều tra viên công an huyện Bình Gia, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Gia và Kiểm sát viên đều thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi phạm tội, chứng cứ buộc tội đối với bị cáo Phùng Duy T: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là phù hợp với lời khai của những người đã mua ma túy với bị cáo, phù hợp với tài liệu thể hiện về thời gian, địa điểm và 6 lần bán ma túy của bị cáo. Căn cứ kết quả giám định xác định số ma túy thu của bị cáo đều là chất ma túy Heroin, có trọng lượng là 0,230 gam (không phẩy hai trăm ba mươi gam).

Với mục đích mua ma túy về bán lại cho những người nghiện để kiếm lời có tiền quay vòng tiếp tục mua ma túy sử dụng cho bản thân, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đã thành niên, hoàn toàn nhận thức được hành viphạm tội là vi phạm pháp luật, việc 6 lần bán lại ma túy cho các đối tượng nghiện, đã xâm phạm trực tiếp đến việc quản lý của Nhà Nước về chất gây nghiện, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự trên địa bàn. Căn cứ mục 2.3 mục 2 phần I và mục 3.3 mục 3 phần II Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao và Bộ tư pháp thì hành vi bán trái phép ma tuý với mục đích kiếm lời từ 2 lần trở nên coi là "Phạm tội nhiều lần" theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự; trước khi phạm tội lần này bị cáo đã bị kết án và bị xử phạt 7 năm tù cũng về tội này và thuộc khung hình phạt đến 15 năm tù, đây là tội rất nghiêm trọng, đến ngày 20/4/2016 mới chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích, nên thuộc trường hợp "Tái phạm nguy hiểm" theo điểm a khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có cơ sở đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Cần tuyên bố bị cáo phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Về tăng nặng không có; về tình tiết giảm nhẹ có 02 tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo theo điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự và có bố đẻ là người có công với nhà nước, theo điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (áp dụng tình tiết có lợi cho bị cáo), để xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo. Xét về nhân thân. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, đã có 01 tiền án và không có ý thức chấp hành pháp luật, nên xác định bị cáo có nhân thân xấu. Từ những nhận định đánh giá trên, căn cứ Điều 45 Bộ luật hình sự, thấy cần phải áp dụng Điều 33 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo ở mức trên khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp, nhằm cải tạo bị cáo sau này trở thành công dân tốt và răn đe phòng ngừa chung tội phạm liên quan đến ma túy.

Về hình phạt sổ sung, căn cứ kết quả điều tra, nội dung xét hỏi tại phiên tòa, thấy bị cáo không nghề nghiệp, không có tài sản, nên không có căn cứ để áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về tang vật vụ án, áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, cần chấp nhận đề nghị của đại diện viện kiểm sát đã nêu ở trên, vì có căn cứ đúng pháp luật.

Đối với ông Phùng Văn S, tại phiên tòa xác nhận ông đã nhận lại xe mô tô cùng giấy tờ xe. Nay không có yêu cầu đề nghị gì, nên không xem xét.

Về án phí, bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự, sung công quỹ nhà nước.

Quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà đều có căn cứ pháp luật, cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần được chấp nhận.

Bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phùng Duy T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33của Bộ luật hình sự và điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (áp dụng tình tiết có lợi cho bị cáo), phạt bị cáo Phùng Duy T 08 (Tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 19 - 7 - 2017.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 02 (Hai) phong bì thư đã niêm phong đựng ma túyHeroin.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 (Một) chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng màu trắng, hiện Mobisatr của bị cáo Phùng Duy T.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 600.000đồng (Sáu trăm nghìn đồng), được khấu trừ trong số tiền 1.340.000đồng (Một triệu ba trăm bốn mươi nghìn đồng) hiện gửi tại Kho bạc Nhà nước huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Trả lại số tiền còn lại là 740.000đồng (Bẩy trăm bốn mươi nghìn đồng), cho bị cáo Phùng Duy T.

(Hiện trạng các vật chứng trên theo đúng biên bản giao nhận vật chứng giữa công an huyện Bình Gia với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Gia lập ngày 14/11/2017).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Phùng Duy T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm, để sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo Phùng Duy T có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2017/HSST ngày 30/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:23/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Gia - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về