Bản án 23/2017/HSST ngày 23/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 23/2017/HSST NGÀY 23/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23/8/2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử lưu động vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2017/HSST ngày 06/6/2017 đối với bị cáo:

Phan Văn T, sinh năm 1981 tại tỉnh Ninh Bình; trú tại xóm b, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; trình độ văn hoá 01/12; nghề nghiệp lao động tự do; con ông Phan Văn Q và bà Nguyễn Thị E, vợ là Nguyễn Thị H, có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2010; không có tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giam từ ngày 24/3/2017 đến nay (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1985; trú tại: xóm b, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình (có mặt).

2. Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1975; Nơi ĐKNKTT: xã G, huyện G, tỉnh Ninh Bình; hiện trú tại: Số nhà 1x, phố V, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo Phan Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Phan Văn T, sinh năm 1981 tại huyện K, tỉnh Ninh Bình; hiện trú tại xóm b, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình là người nghiện ma túy, do có thời gian sinh sống tại huyện M, tỉnh Sơn La và biết ở trên đó có người bán ma túy (Hêrôin) nên đã đi mua ma túy (Hêrôin) về sử dụng và bán lại cho người nghiện để kiếm lời. Sáng ngày 20 hoặc 21/3/2017, Phan Văn T đi ô tô khách từ huyện K, tỉnh Ninh Bình lên xã L, huyện V (trước đây thuộc huyện M), tỉnh Sơn La để mua ma túy. Tại khu vực Quốc lộ 6 thuộc xã L, huyện V, tỉnh Sơn La T gặp một người thanh niên dân tộc Mông khoảng 30 tuổi không rõ tên, tuổi, địa chỉ hỏi mua ma túy (Hêrôin) và đưa cho người thanh niên 16.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền anh ta đưa cho T 03 gói ma túy (Hêrôin). Khi đã mua được ma túy, T bắt xe ô tô mang về nhà lấy một ít ra chia thành các gói nhỏ để sử dụng và ai có nhu cầu mua thì bán lại, số ma túy còn lại T bỏ vào trong túi xách nhựa màu hồng để trong túi nilon treo ở mắc áo trong buồng ngủ.

Vào khoảng 09 giờ sáng ngày 23/3/2017, Thái Bá S, sinh năm 1987 trú tại số nhà 4x, đường T, phố B, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình đi xe ô tô buýt từ thành phố N xuống thị trấn P, huyện K để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến khu vực gần cổng Bệnh viện đa khoa huyện K, S xuống xe vào một quán nước thì gặp Phạm Văn K, sinh năm 1980; trú tại xã T, huyện K. Qua nói chuyện S biết K là người sử dụng ma túy (Hêrôin) và biết có người bán ma túy. S liền rủ K góp tiền cùng mua chung ma túy (Hêrôin) để sử dụng. K đồng ý và đưa cho S 100.000 đồng, sau đó K mượn điện thoại của người đi đường gọi cho T hỏi mua Hêrôin, T đồng ý nói giá 200.000 đồng/01 gói. K mượn xe máy Wave của một người bạn để chở S đến nhà trẻ xóm b, xã K, huyện K thì gặp T. Tại đây T đưa cho K một gói Hêrôin, sau khi nhận Hêrôin thì S lấy 200.000 đồng đưa cho T rồi K tiếp tục chở S ra khu vực bờ đê gần đó để cùng sử dụng hết.

Do biết T có ma túy bán, khoảng 10 giờ ngày 24/3/2017, S rủ Nguyễn Lâm T, sinh năm 1981, trú tại phố B, phường N, thành phố N, tỉnh Ninh Bình (Nguyễn Lâm T là bạn nghiện ma túy với S) cùng đi xe buýt từ thành phố N xuống thị trấn P, huyện K để mua ma túy của T về sử dụng. Nguyễn Lâm T và S mỗi người góp 200.000 đồng. Khi đến bến xe thị trấn P, huyện K, S và Nguyễn Lâm T xuống xe, S gọi điện cho T hỏi mua 02 gói ma túy (Hêrôin), sau đó S bảo Nguyễn Lâm T đi gặp T lấy Hêrôin rồi quay lại bến xe đợi S để hai người cùng đi sử dụng. Nguyễn Lâm T cầm tiền đi ra khu vực cống T, phố T, thị trấn P, huyện K để gặp T. Tại đây, Nguyễn Lâm T đưa cho T 400.000 đồng, T cầm tiền rồi đưa cho Nguyễn Lâm T hai gói Hêrôin được gói ngoài bằng túi nilon mầu trắng, cùng lúc đó bị Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an tỉnh Ninh Bình phát hiện, bắt giữ. Tại chỗ, đã thu giữ của Nguyễn Lâm T một gói nilon màu trắng bên trong có hai gói nhỏ được gói bên ngoài bằng giấy trắng, trong cùng là chất bột dạng cục mầu trắng. Nguyễn Lâm T khai là Hêrôin vừa mua của T. Thu giữ của T số tiền 400.000 đồng, T khai đó là tiền bán 02 gói Hêrôin cho Nguyễn Lâm T mà có, một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã cũ và 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển kiểm soát 35Kx-17x.xx.

Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của Phan Văn T tại xóm b, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình đã thu giữ trong buồng ngủ của T một túi sách bằng nhựa mầu hồng có kích thước 17 x 6 x 11cm để ở trong túi nilon mầu xám đựng quần áo treo trên mắc áo, bên trong túi sách nhựa màu hồng có ba gói (túi) nilon mầu trắng đều được thắt nút một đầu (túi một có kích thước 3,5 x 3,5 x 2cm), túi hai có kích thước 2 x 2 x 2cm và túi ba có kích thước 1,5 x 1 x 1cm) bên trong của 03 túi đều chứa chất bột dạng cục mầu trắng. Phan Văn T khai nhận 03 túi đều chứa chất bột dạng cục mầu trắng là Hêrôin. Ngoài ra còn thu giữ tại nền nhà, cạnh cửa ra vào phòng khách 04 mảnh giấy (loại giấy cắt từ truyện tranh) kích thước mỗi mảnh 3 x 3cm, 04 mảnh giấy này, T khai cắt ra dùng để gói ma túy sử dụng và bán.

Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành cân xác định khối lượng, lấy mẫu chất bột dạng cục mầu trắng đã thu giữ trong quá trình bắt giữ Nguyễn Lâm T và trong quá trình khám xét nhà ở của Phan Văn T để trưng cần giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 84/GĐMT ngày 27/3/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Chất bột dạng cục mầu trắng thu giữ của Nguyễn Lâm T ký hiệu A1 gửi giám định có khối lượng: 0,0803 (không phẩy không nghìn tám trăm linh ba) gam; chất bột dạng cục mầu trắng thu giữ của Phan Văn T ký hiệu M1 gửi giám định có khối lượng: 32,1776 (ba mươi hai phẩy một nghìn bẩy trăm bẩy mươi sáu) gam đều là chất ma túy, loại Hêrôin. Hêrôin là chất ma túy thuộc bảng danh mục I, số thứ tự 20; Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. 

Không hoàn trả mẫu vật.

Quá trình điều tra, bị cáo Phan Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 16/CT-VKS(P1) ngày 05/6/2017 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình truy tố bị cáo Phan Văn T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 3 khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Phan Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã truy tố. Bị cáo xác định hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị truy tố về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" là đúng người, đúng tội. Bị cáo rất ân hận, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như lần đầu phạm tội, bản thân bị cáo sức khỏe yếu do bị bệnh lao phổi từ năm 2012, bố bị cáo là ông Phan Văn Q được tặng thưởng Huân chương Chiến sỹ vẻ vang để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Phan Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 3 khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; khoản 3 Điều 7; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Phan Văn T từ 15 đến 17 (mười bẩy) năm tù. Phạt tiền bổ sung bị cáo Phan Văn T từ 5 (năm) đến 10 (mười) triệu đồng để sung quỹ Nhà nước.

Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư dán kín niêm phong theo quy định của pháp luật có chữ ký của các thành phần tham gia trên phong bì thư có ghi mẫu vật hoàn trả số 84/2017/GĐMT, thu của Phan Văn T; 01 (một) túi sách nhựa mầu hồng; 04 mảnh giấy; 01 (một) phong bì thư dán kín niêm phong theo quy định của pháp luật có chữ ký của các thành phần tham gia trên phong bì thư có ghi hai vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 400.000 đ, thu của Phan Văn T.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 400.000 (Bốn trăm nghìn) đồng thu giữ của Phan Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã cũ.

- Truy thu để sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng là tiền T đã thu lời bất chính từ việc bán ma túy cho Thái Bá S, Phạm Văn K ngày 23/3/2017.

- Trả lại cho chị Nguyễn Thị H (là vợ bị cáo Phan Văn T) chiếc xe máy nhãn hiệu SIRIUS mầu đen đã cũ, biển kiểm soát 35Kx-17x.xx.

Trong phần tranh luận, bị cáo T và chị H nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì khác.

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Văn T tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người liên quan, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong cân xác định trọng lượng vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Đã có đủ căn cứ để xác định Phan Văn T là người nghiện ma túy, để có tiền chi tiêu và có ma túy sử dụng cho bản thân, ngày 20 hoặc 21/3/2017, T lên xã L, huyện V (trước đây thuộc huyện M), tỉnh Sơn La mua 03 gói ma túy (Hêrôin) của một người thanh niên dân tộc Mông khoảng 30 tuổi không rõ tên, tuổi, địa chỉ với giá 16.000.000 đồng về sử dụng và bán cho người nghiện khác kiếm lời. 11 giờ 50 phút ngày 24/3/2017, khi T đang bán 02 gói ma túy (Hêrôin) cho Nguyễn Lâm T thì bị Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Ninh Bình phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ của Nguyễn Lâm T hai gói ma túy có trọng lượng 0,0803 gam. Thu giữ của T số tiền 400.000 đồng, một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã cũ và 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển kiểm soát 35Kx-17x.xx. Khám xét khẩn cấp nhà ở của T thu giữ trong nhà 03 gói đều chứa chất bột dạng cục mầu trắng đựng trong túi nhựa màu hồng. Ngoài ra ngày 23/3/2017, T đã 01 lần bán ma túy cho Thái Bá S, Phạm Văn K thu lời bất chính số tiền 200.000 đồng. Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình khẳng định: Toàn bộ chất ma túy thu giữ của Nguyễn Lâm T và Phan Văn T đều là Hêrôin, có tổng trọng lượng là: 32,2579 gam. (Hêrôin là chất ma túy thuộc bảng danh mục I, số thứ tự 20; Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ). Hành vi nêu trên của bị cáo Phan Văn T là phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" thuộc trường hợp "Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 3 khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo ra trước Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình để xét xử về tội danh và điều luật như đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, tác động rất xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác; làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, trí tuệ và sự phát triển bình thường của giống nòi, làm khánh kiệt về kinh tế của người sử dụng ma tuý, gây bất bình trong quần chúng nhân dân; Vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

Bị cáo Phan Văn T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ mua bán ma túy là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm. T là người nghiện ma túy, ngày 30/5/2012 đã bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc nhưng T không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân trở thành người lương thiện mà tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Để có ma túy sử dụng cho bản thân và bán lại cho những người khác để kiếm lời T đã mua số lượng ma túy lớn về cất giữ tại nhà để sử dụng và bán cho người nghiện với thủ đoạn mua bán, giao nhận hết sức tinh vi nhằm trốn tránh sự phát hiện của cơ quan pháp luật, thể hiện bị cáo là đối tượng hình sự nguy hiểm. T đã hai lần bán ma túy (Hêrôin): một lần cho Thái Bá S, Phạm Văn K thu lời 200.000 đồng; một lần bán cho Nguyễn Lâm T 0,0803 gam Hêrôin nên phải chịu tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Với tính chất, hành vi phạm tội như trên Phan Văn T phải được xử phạt nghiêm khắc bằng loại hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo với xã hội một thời gian dài tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo để trừng phạt và cải tạo, giáo dục bị cáo thành người tốt. Đồng thời cũng là bài học để răn đe phòng ngừa chung cho xã hội đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm về ma túy trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt bị cáo được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là bị cáo phạm tội lần đầu, quá trình điều tra và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo bị bệnh lao phổi, sức khỏe yếu được quy định tại điểm p khoản 1 khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bố bị cáo, ông Phan Văn Q là người có thời gian phục vụ trong Quân đội, được tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang, đây là tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 nhưng theo Bộ luật hình sự năm 2015 thì được quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 nên cần áp dụng cho bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.

Bị cáo T phạm tội mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích thu lời bất chính nên ngoài hình phạt chính là phạt tù cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo T theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Quá trình thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Phan Văn T bán 0,0803 gam Hêrôin cho Nguyễn Lâm T với giá 400.000 đồng (Cơ quan điều tra đã thu giữ số tiền này hiện đang gửi tại tài khoản 3949.0.1054125.00000 Cục thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình, tại kho bạc Nhà nước tỉnh Ninh Bình) đây là số tiền thu lời bất chính từ việc bán ma túy nên phải tịch thu sung quỹ Nhà nước. Ngày 23/3/2017, Phan Văn T đã bán ma túy cho Thái Bá S, Phạm Văn K thu lời bất chính số tiền 200.000 đồng, đây là tiền do phạm tội mà có nên phải truy thu từ bị cáo T để sung quỹ Nhà nước.

Số ma túy thu của Nguyễn Lâm T khi bắt quả tang, thu của Phan Văn T khi khám xét nơi ở sau khi đã lấy mẫu để giám định số ma túy và vật chứng còn lại gồm có: 0,0348 gam chất bột màu trắng trong mẫu ký hiệu A1; 30,2718 gam chất bột màu trắng trong mẫu ký hiệu M1, đều là chất ma túy, loại Heroine; toàn bộ vỏ bao gói trong các gói niêm phong ban đầu. Tất cả được bỏ trong một phong bì thư dán kín niêm phong theo quy định của pháp luật có chữ ký của các thành phần tham gia trên phong bì thư có ghi mẫu vật hoàn trả số 84/2017/GĐMT, thu của Phan Văn T (theo Biên bản cân xác định khối lượng, niêm phong và giao nhận đối tượng sau giám định ngày 27/3/2017 giữa Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình đã bàn giao toàn bộ vật chứng trong vụ án cho Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/6/2017 gồm: một phong bì thư dán kín niêm phong theo quy định của pháp luật có chữ ký của các thành phần tham gia trên phong bì thư có ghi mẫu vật hoàn trả số 84/2017/GĐMT, thu của Phan Văn T; một túi sách nhựa mầu hồng; bốn mảnh giấy kích thước 3cm x 3cm; một phong bì thư dán kín niêm phong theo quy định của pháp luật có chữ ký của các thành phần tham gia trên phong bì thư có ghi hai vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 400.000 thu của Phan Văn T là các vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Quá trình điều tra thu giữ: Một điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã cũ; một chiếc xe máy nhãn hiệu SIRIUS mầu đen đã cũ, biển kiểm soát 35Kx- 17x.xx là chiếc xe máy bị cáo dùng làm phương tiện để thực hiện tội phạm cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, quá trình điều tra, bị cáo và vợ bị cáo là chị Nguyễn Thị H khai nhận đây là chiếc xe máy được mua bằng tiền tiết kiệm trong thời kỳ hôn nhân của hai vợ chồng, đăng ký mang tên Phan Văn T, là tài sản chung của hai vợ chồng. Nên sau khi hóa giá cần tịch thu sung quỹ Nhà nước ½ giá trị chiếc xe máy là phần tài sản của bị cáo T, còn lại ½ giá trị chiếc xe máy trả lại cho chị Nguyễn Thị H.

Chi tiết các vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/6/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình và Cục thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình.

Đối với chiếc điện thoại Iphone màu đen đã cũ có số Imei 013421005415560 mà Nguyễn Lâm T và S sử dụng để liên lạc mua ma túy của T; quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại trên là của anh Nguyễn Văn V. Anh V cho Thái Bá S mượn để sử dụng. Do anh V không biết việc S sử dụng chiếc điện thoại này để liên lạc mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại trên cho anh V là đúng quy định của pháp luật.

Trong vụ án này, hành vi mua trái phép chất ma túy của Thái Bá S, Nguyễn Lâm T, Phạm Văn K để sử dụng cho bản thân có dấu hiệu của tội tàng trữ trái phép chất ma túy xong do S, K đã sử dụng hết, vật chứng không thu được, không có căn cứ giám định để xác định loại ma túy, hàm lượng chất ma túy do đó không có căn cứ để khởi tố hình sự đối với S và K. Khi cơ quan điều tra bắt giữ đã thu giữ của Nguyễn Lâm T một gói Hêrôin có trọng lượng là 0,0803 gam, T chưa có tiền án về tội phạm ma túy do vậy không đủ căn cứ xử lý hình sự đối với Nguyễn Lâm T. Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Ninh Bình đã quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với Thái Bá S, Nguyễn Lâm T, Phạm Văn K là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho T do T không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra xử lý.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 3 khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo Phan Văn T 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo 24/3/2017.

- Phạt tiền bổ sung 10 (Mười triệu) đồng đối với bị cáo Phan Văn T để sung quỹ Nhà nước.

2. Các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000 (Bốn trăm nghìn) đồng đã thu của bị cáo Phan Văn T. Tiếp tục quản lý số tiền 400.000 (Bốn trăm nghìn) đồng hiện đang gửi tại tài khoản 3949.0.1054125.00000 Cục thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình, tại kho bạc Nhà nước tỉnh Ninh Bình theo ủy nhiệm chi số 03 lập ngày 25/6/2017 để đảm bảo việc thi hành án.

- Truy thu của bị cáo Phan Văn T để sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: một điện thoại di động nhãn hiệuNOKIA màu đen đã cũ có số IMEI:  351718060660463

- Tịch thu hóa giá một chiếc xe máy nhãn hiệu SIRIUS mầu đen đã cũ có số máy: 5C6J199570, số khung: C6JOGY199569, biển kiểm soát 35Kx-17x.xx sung quỹ Nhà nước ½ giá trị chiếc xe máy thuộc phần tài sản của Phan Văn T, còn lại ½ giá trị chiếc xe máy thuộc phần tài sản của chị H trả lại cho chị Nguyễn Thị H (vợ bị cáo Phan Văn T).

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư dán kín niêm phong theo quy định của pháp luật có chữ ký của các thành phần tham gia, trên phong bì thư có ghi mẫu vật hoàn trả số 84/2017/GĐMT thu của Phan Văn T; một túi sách nhựa mầu hồng; bốn mảnh giấy kích thước 3cm x 3cm; một phong bì thư dán kín niêm phong theo quy định của pháp luật có chữ ký của các thành phần tham gia trên phong bì thư có ghi hai vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 400.000 đ thu của Phan Văn T.

Chi tiết các vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/6/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình và Cục thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại Điều 357; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Phan Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 23/8/2017. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2017/HSST ngày 23/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về