Bản án 231/2021/HSST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 231/2021/HSST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 232/2021/HSST ngày 05 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 252/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức T – sinh năm: 1990; Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn Đ, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông: Nguyễn Đăng D (Tức D)(Đã chết); Con bà: Nguyễn Thị N; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; Tiền án: Không, tiền sự: Không.

Danh chỉ bản số 221 lập ngày 16/4/2021 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp. Bắt quả tang ngày 09/4/2021, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn ngày 18/4/2021. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trịnh Sơn Đoài - Luật sư văn phòng luật sư Sơn Nga - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 05 phút ngày 9/4/2021, Tổ công tác C2D5 – PK02E Công an TP Hà Nội phối hợp cùng Công an phường Nguyễn Du làm nhiệm vụ tại khu vực trước số nhà 176 Lê Duẩn, p. Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Tp. Hà Nội phát hiện xe ô tô taxi G7 nhãn hiệu Huyndai màu bạc, BKS: 30A -86380 do Đinh Thanh D (SN: 1987; nơi cư trú: xã S, huyện Ứng Hòa, Tp. Hà Nội) điều khiển chở Nguyễn Đức T có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T tự giác lấy từ túi quần bên phải phía trước đang mặc 01 túi nilong màu trắng kích thước (4x6)cm bên trong chứa 03 viên nén màu xanh hình chữ nhật trên bề mặt mỗi viên đều in logo “Redbull” và 01 túi nilong màu trắng kích thước (2,5 x3) cm bên trong chứa tinh thể màu trắng giao nộp cho tổ công tác và khai nhận đó là ma túy “Kẹo” và ma túy “Ke” T vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, lập biên bản niêm phong vật chứng và đưa T, D về trụ sở để tiến hành làm rõ.

Ngoài ra, cơ quan công an thu giữ của T:

- 01 (một) điện thoại Iphone XS màu đen đã qua sử dụng, số Imei: 357234097608743 - 01 (một) điện thoại di động Iphone 7 màu đen đã qua sử dụng, số Imei: 359212076149366.

Thu giữ của D:

- 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu Huyndai màu bạc, BKS: 30A-86380.

Cơ quan CSĐT- Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 349 ngày 09/04/2021 yêu cầu giám định 02 gói ma túy thu giữ của Nguyễn Đức T.

Tại Bản kết luận giám định số 4044/KLGĐ-PC09 ngày 15/04/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an TP Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong màu trắng khối lượng 1,137 gam là ma túy loại Ketamine.

- 03 viên nén màu xanh hình chữ nhật, trên bề mặt mỗi viên in logo Redbull khối lượng 1,120 gam đều là ma túy MDMA.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đức T khai nhận: Khoảng 17h00’ ngày 8/4/2021, T bắt xe khách từ Thái Bình về nhà bạn ở huyện Ứng Hòa, Hà Nội chơi. Đến khoảng 22h00’ cùng ngày, T bắt xe taxi từ huyện Ứng Hòa, Hà Nội về phố Tuệ Tĩnh, Q. Hai Bà Trưng, Tp. Hà Nội để thuê phòng nghỉ. Trên đường đi, T nảy sinh ý định mua ma túy mang về nhà ở Thái Bình sử dụng. Sau đó, T sử dụng tài khoản facebook “Dâu Tây” của T nhắn tin vào nhóm Facebook “D sự đồng phê” hỏi mua ma túy “Kẹo” và “Ketamine”. Một lúc sau, một nam thanh niên nhắn tin qua mạng xã hội Facebook hẹn T hẹn đến 254 Kim Giang, P. Đại Kim, Q. Hoàng Mai, Tp. Hà Nội để giao dịch ma túy. Khoảng 0h30’ ngày 9/4/2021, T đi đến gần khu vực số 254 phố Kim Giang, Q. Hoàng Mai, Tp. Hà Nội. Tại đây, T gặp và mua của 01 nam thanh niên không quen biết 03 viên ma túy “kẹo” giá 300.000 đồng/01 viên và 01 chỉ ma túy Ketamine giá 2.400.000 đồng, tổng số tiền là 3.300.000 đồng. Sau khi mua mua được ma túy, T cất 02 túi nilon chứa ma túy vào túi quần bên phải phía trước đang mặc và thuê xe taxi BKS: 30A-86380 do anh Đinh Thanh D điều khiển chở đến khu vực số 47 phố Tuệ Tĩnh để thuê phòng nghỉ. Khi đi đến khu vực trước số nhà 176 Lê Duẩn, P. Nguyễn Du, Q. Hai Bà Trưng, Tp. Hà Nội thì bị cơ quan công an phát hiện bắt giữ.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho T vào ngày 09/04/2021: T khai không biết nhân thân, lai lịch cụ thể của người đàn ông bán ma tuý. T liên hệ qua facebook, sau khi liên hệ mua bán ma túy, T đã xóa tin nhắn liên lạc và không nhớ được tên tài khoản facebook của người bán ma túy. Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải Nguyễn Đức T đi xác định nơi mua ma túy và người đàn ông bán ma túy. Kết quả, T xác định được nơi mua ma túy tại khu vực đối diện số 254 phố Kim Giang, P. Đại Kim, Q. Hoàng Mai, Tp. Hà Nội, nhưng không xác định được người đàn ông bán ma tuý. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ, xử lý.

Đối với anh Đinh Thanh D là lái xe taxi: quá trình điều tra xác định anh D không biết, không liên quan đến việc T tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu Huyndai G7 màu bạc, BKS 30A863.80, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Đức T. Vì vậy, ngày 9/4/2021, Cơ quan CSĐT- Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu, trao trả chiếc xe ô tô trên cho anh Đinh Thanh D.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen: quá trình điều tra T khai dùng để liên lạc, trao đổi qua mạng xã hội Facebook để mua ma túy về sử dụng.

Đối với 01 điện thoại Iphone XS màu đen: T khai dùng để liên lạc cá nhân, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tại Bản cáo trạng số 215/CT/VKS-HS ngày 21 tháng 7 năm 2021 đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan công an, công nhận nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Nguyễn Đức T như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng. Sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo với mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì giấy đã được niêm phong bên trong có chứa 1,137 gam Ketamine và 1,120 gam ma túy MDMA bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Nguyễn Đức T.

- Tịch thu sung công quỹ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen đã qua sử dụng số IMEI 1: 359212076149366.

- Trả lại bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu đen đã qua sử dụng số IMEI 1: 357234097608743.

Luật sư bào chữa cho bị cáo có ý kiến:

Hoàn toàn nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đức T. Tuy nhiên, mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị là quá nặng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo Nguyễn Đức T:

- Bị cáo T trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đều có thái độ thành khẩn khai báo ăn năn hối cải.

- Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội.

- Hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn: Bố mới mất, mẹ già yếu, ốm đau, bệnh tật, chị gái bị lừa bán sang Trung Quốc. T là lao động chính trong gia đình.

- Gia đình bị cáo có truyền thống cách mạng, cống hiến cho tổ quốc. Bà ngoại của bị cáo được nhà nước trao tặng huân chương kháng chiến hạng nhất và hạng ba.

Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức án thấp hơn so với mức mà Viện kiểm sát đề nghị và cho bị cáo xin lại chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone XS vì đó là tài sản riêng của bị cáo và không liên quan đến hành vi phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP. Hà Nội và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 01 giờ 05 phút ngày 09/4/2021, tại khu vực trước số 176 phố Lê Duẩn, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Tp. Hà Nội, Nguyễn Đức T có hành vi tàng trữ trái phép 1,137 gam ma túy Ketamine và 1,120 gam ma túy MDMA, mục đích để sử dụng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Đức T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

“Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng của các chất đó tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này;" Do đó viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm an ninh trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm huỷ hoại sức khoẻ con người, làm xói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.

[3]. Xét nhân thân của bị cáo không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải. Gia đình bị cáo có công với cách mạng: Bà ngoại bị cáo được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất, hạng ba. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 (Năm triệu) đồng đến 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng”. Tuy nhiên, xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5].Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì giấy đã được niêm phong bên trong có chứa 1,137 gam Ketamine và 1,120 gam ma túy MDMA bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Nguyễn Đức T.

- Tịch thu sung công quỹ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen đã qua sử dụng số IMEI 1: 359212076149366 vì liên quan đến hành vi phạm tội.

- Trả lại bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu đen đã qua sử dụng số IMEI 1: 357234097608743 vì không liên quan đến hành vi phạm tội.

[6]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Đức T 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giam, tạm giữ từ ngày 09 tháng 4 năm 2021 đến ngày 18 tháng 4 năm 2021.

2. Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng :

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì giấy đã được niêm phong bên trong có chứa 1,137 gam Ketamine và 1,120 gam ma túy MDMA bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Nguyễn Đức T.

- Tịch thu sung công quỹ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen đã qua sử dụng số IMEI 1: 359212076149366.

- Trả lại bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu đen đã qua sử dụng số IMEI 1: 357234097608743.

Các tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 26 tháng 7 năm 2021 (TV: 259/21) giữa Công an quận Hai Bà Trưng và Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng.

4. Về án phí : Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo : Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 231/2021/HSST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:231/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về