Bản án 229/2018/HS-ST ngày 30/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 229/2018/HS-ST NGÀY 30/07/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 07 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 222/2018/TLST- HS ngày 05 tháng 07 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 246/2018/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 07 năm 2018 đối với bị cáo:

HÀN ĐỨC T, sinh năm: 1996, tại: tỉnh N; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Khả Lôi, xã Đ, huyện L, tỉnh N; Nghề nghiệp: Sinh viên Đại học L; Trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hàn Trung K (c); Con bà: Vũ Thị T; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số: 225 do Công an quận Đống Đa lập ngày 13/3/2018; Bị cáo tại ngoại; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Đàm Nhật L, sinh năm: 1995

HKTT: 31K S, phường N, quận T, TP Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 04/11/2017, T đến phòng E101 trường đại học L để thi. Khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, T làm bài xong và nộp bài ra về, T đi qua bục giảng thấy có nhiều ba lô để ở trên bục giảng nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T lấy một chiếc ba lô bằng vải đen ở ngoài cùng gần cửa ra vào rồi đi về, đi đến hành lang T mở ba lô kiểm tra thì thấy bên trong có 01 chiếc máy tính xách tay, 01 chiếc ví nên đã mang về phòng trọ cất giấu. Sau khi mang về phòng trọ, T mở ra kiểm tra thì thấy bên trong có 01 máy tính Macbook, 01 chiếc ví bên trong có 01 chứng minh nhân dân, 01 thẻ sinh viên trường đại học L, 02 thẻ ngân hàng Vietcombank, 01 giấy phép lái xe A1, 01 giấy phép lái xe B2 đều mang tên Đàm Nhật L, 01 thẻ ngân hàng VPBank, 01 đăng ký xe mô tô đều mang tên Phạm Thị Minh T và 1.000.000 đồng. Do máy tính có mật khẩu nên T đã tắt chiếc máy tính đi, khoảng 11 giờ ngày 06/11/2017 T mang chiếc máy tính vừa trộm cắp được đi đến cửa hàng sửa máy tính ở ngõ 11 H, Đ, Hà Nội để thuê anh Trần Thanh Đ (SN: 1979; trú tại: thị trấn O, O, Hà Nội) phá khóa. Sau khi kiểm tra, anh Đ nghi ngờ chiếc máy tính Macbook không phải của T nên đã khuyên T mang trả cho chủ sở hữu đồng thời anh Đ gọi điện thoại cho anh L đến. Sau đó, cơ quan công an đã đến và yêu cầu T về trụ sở để giải quyết.

Tại cơ quan điều tra Hàn Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 442/ĐGTS ngày 13/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản quận Đống Đa kết luận:

- Trị giá máy tính Macbook, thẻ ATM, GPLX, ĐK xe, CMT, ví, ba lô: 25.399.000 đồng.

Đối với anh Trần Thanh Đ là chủ cửa hàng sửa chữa và mua bán máy tính, anh Đ không biết và không tham gia vào việc trộm cắp tài sản của Trung nên cơ quan điều tra không xử lý.

Đối với tang vật thu giữ của bị can Hàn Đức T gồm: 01 máy tính xách tay Macbook, 01 chứng minh thư nhân dân, 01 thẻ sinh viên trường đại học L, 02 thẻ ngân hàng Vietcombank, 01 giấy phép lái xe A1, 01 giấy phép lái xe B2 đều mang tên Đàm Nhật L, 01 thẻ ngân hàng VPBank, 01 đăng ký xe mô tô đều mang tên Phạm Thị Minh T, 01 ví cầm tay, 01 ba lô đã được trao trả cho anh Đàm Nhật L là chủ sở hữu. Anh L đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Cáo trạng số 188/CT-VKS ngày 12/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố Hàn Đức T tội Trộm cắp tài sản theo Khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng đã nêu và đề nghị áp dụng: Khoản 1, Điều 173; điểm i,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt:

- Hàn Đức T từ 04 tháng tù đến 06 tháng tù.

- Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hàn Đức T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và vật chứng thu được trong vụ án và Kết quả định giá tài sản. Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 04/11/2017 tại phòng E101 trường Đại học L, số 87 T, phường H, quận Đ, TP Hà Nội, Hàn Đức T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc ba lô bên trong có 01 máy tính Macbook, 01 chiếc ví bên trong có 01 chứng minh thư nhân dân, 01 thẻ sinh viên trường đại học Luật Hà Nội, 02 thẻ ngân hàng Vietcombank, 01 giấy phép lái xe A1, 01 giấy phép lái xe B2 đều mang tên Đàm Nhật L, 01 thẻ ngân hàng Vietcombank, 01 đăng ký xe mô tô đều mang tên Phạm Thị Minh T và 1.000.000 đồng tiền mặt, tổng trị giá 26.399.000 đồng của anh Đàm Nhật L.

[2]. Hành vi của bị cáo Hàn Đức T đã phạm tội Trộm cắp tài sản theo Khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố theo tội danh và điều luật trên là hoàn toàn đúng pháp luật.

 [3]. Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự ổn định xã hội. Bị cáo biết rõ hậu quả nguy hiểm xảy ra nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với mục đích vụ lợi cá nhân thể hiện ý thức của bị cáo là xem nhẹ pháp luật, coi thường tài sản của người khác. Vì vậy, cần thiết áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng đảm bảo công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm.

Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thái độ ăn năn hối cải; Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo đã đầu thú, tài sản đã thu hồi đầy đủ cho người bị hại và người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì khác; Bị cáo có nơi ở ổn định rõ ràng và đang là sinh viên nên áp dụng điểm i,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo phải chịu thêm hình phạt bổ sung bằng tiền theo Khoản 5, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm. Song xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo lại đang là sinh viên nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền, vì vậy, miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

[4]. Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì nên không xét.

[5]. Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hàn Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Điểm i,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Hàn Đức T 12 ( Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Hàn Đức T về Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện L, tỉnh N để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách của bản án.

Trong trường hợp bị cáo Hàn Đức T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, Bị cáo Hàn Đức T cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Hàn Đức T phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ:

- Điều 136,331,333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

- Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 229/2018/HS-ST ngày 30/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:229/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về