Bản án 226/2019/HS-PT ngày 31/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 226/2019/HS-PT NGÀY 31/12/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31/12/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 178/2019/TLPT-HS ngày 03/12/2019 đối với các bị cáo Nguyễn Tấn H và Đặng Tân Nhật Đ do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Đà Nẵng.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. NGUYỄN TẤN H. Sinh ngày: 10 tháng 01 năm 1995, tại Quảng Nam. Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Tổ 20, phường N, quận S, TP. Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn H và bà Cao Thị N(Đều còn sống); có vợ Lê Thị I và có 02 con (con lớn nhất 04 tuổi, nhỏ nhất 02 tuổi). Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 17/12/2018, bị Công an phường N, quận S, TP. Đà Nẵng xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị bắt ngày 13/6/2019 . Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

2. ĐẶNG TÂN NHẬT Đ. Sinh ngày: 15 tháng 01 năm 1997, tại Quảng Ngãi. Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Tổ 04 thị trấn V, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn D và bà Tân Thị Thu T (Đều còn sống); Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 13/6/2019 – Bị cáo hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Đặng Tân Nhật Đ: Có ông Ông Quốc C và ông Đỗ Thành N - Luật sư của Văn phòng luật sư Đỗ Thành N, thuộc Đoàn luật sư TP. Đà Nẵng theo yêu cầu của bị cáo – Ông C Có mặt. Ông N vắng mặt có gửi luận cứ bào chữa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20h 30 phút ngày 13/6/2019, tại khu vực phía trước quán karaoke Em Ca thuộc tổ 08, phường M, quận H, TP. Đà Nẵng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H, TP. Đà Nẵng bắt quả tang Đặng Tân Nhật Đ và Nguyễn Tấn H có hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

* Tang vật thu giữ của: Đặng Tân Nhật Đ: 01(một) gói nylon bên trong chứa 07 viên nén (gồm 04 viên màu xanh và 03 viên màu vàng) và 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu: H1) và một số vật chứng khác liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy của Đ và Nguyễn Tấn H.

Tại Kết luận giám Đ số: 165/GĐ-MT ngày 20/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Đà Nẵng kết luận:

Mẫu (ký hiệu H1) được phân thành: 03(ba) viên nén màu vàng (ký hiệu H1a)04 (bốn) viên nén màu xanh (ký hiệu H1b); tinh thể màu trắng trong 01(một) gói nylon (ký hiệu H1c). Kết quả:

+ Các viên nén trong mẫu (ký hiệu H1a; H1b) gửi giám Đ là ma túy, loại MDMA, khối lượng các viên nén mẫu H1a: 1,167 gam; H1b: 1,569 gam;

+ Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu H1c gửi giám Đ là ma túy, loại Ketamine, khối lượng tinh thể mẫu H1c: 0,497 gam.

Qua điều tra, Nguyễn Tấn H và Đặng Tân Nhật Đ đã khai nhận việc mua bán trái phép chất ma túy trước đó như sau:

Khong 15h ngày 13/6/2019, một thanh niên tên R (không rõ nhân thân, lai lịch) liên lạc qua số điện thoại 0857014244 của Đặng Tân Nhật Đ hẹn gặp tại quán cà phê khu vực đầu đường H, phường A, quận S, TP. Đà Nẵng để hỏi mua 07 (bảy) viên ma túy (loại thuốc lắc) và 01(một) gói ma túy (loại Ketamine). Đ đồng ý bán và nói giá khoảng 400.000 đồng (Bốn trăm ngàn đồng) 01(một) viên ma túy thuốc lắc và 2.500.000 đồng (Hai triệu, năm trăm ngàn đồng) 01(một) gói ma túy Ketamine, giá cụ thể Đ sẽ nói cho R biết sau. R hẹn tối 13/6/2019 sẽ nhận ma túy, địa điểm sẽ thông báo cho Đ. Sau đó Đ sử dụng số điện thoại 0857014244 gọi đến số 0905714995 của Nguyễn Tấn H hỏi mua số lượng ma túy như trên, H đồng ý. Lúc này H sử dụng số điện thoại 0905714995 liên hệ với Cảnh (không rõ nhân thân lai lịch, không nhớ số điện thoại) hỏi mua 03(ba) viên ma túy thuốc lắc, Cảnh đồng ý bán và báo giá 1.000.000đ (Một triệu đồng) hẹn giao dịch tại khu vực phía sau quán karoke Boom Boom, phường A, quận S, TP. Đà Nẵng. H tiếp tục điện thoại cho Q (chưa rõ nhân thân lai lịch, không nhớ số điện thoại) hỏi mua 04 (bốn) viên ma túy thuốc lắc và 01(một) gói ma túy Ketamine, Q đồng ý bán và báo giá 3.400.000 đồng (Ba triệu, bốn trăm ngàn đồng), hẹn giao dịch tại khu vực ngã tư đường Q - T, quận C, TP. Đà Nẵng.

Đến khoảng 17 giờ ngày 13/6/2019, Đ điều khiển xe mô tô hiệu Sirius, biển kiểm soát số: 76D1-13202 chở H tới khu vực phía sau quán karaoke Boom Boom. Tại đây, H mua của Cảnh 03(ba) viên ma túy thuốc lắc với giá 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) rồi H giao cho Đ cất giấu. Trên đường về, H nói với Đ giá bán 07(bảy) viên ma túy thuốc lắc và 01(một) gói ma túy Ketamine là 5.100.000 đồng (Năm triệu, một trăm ngàn đồng), lời được 700.000 đồng (Bảy trăm ngàn đồng) H và Đ thống nhất sẽ chia đôi để tiêu xài cá nhân.

Khong 17 giờ 30 phút cùng ngày, H nhờ một người bạn tên L (không rõ nhân thân lai lịch) chở H, còn Đ đi xe một mình cùng đến khu vực ngã tư đường Q Trung - Trần Phú. Tại đây, H mua của Q 04 (bốn) viên ma túy thuốc lắc và 01(một) gói ma túy Ketamine với giá 3.400.000 đồng (Ba triệu, bốn trăm ngàn đồng) và giao cho Đ. Đ đem số ma túy về phòng trọ tại phường H, quận C, TP. Đà Nẵng cất giấu, còn L chở H về nhà.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, R liên lạc với Đ hẹn giao ma túy tại trước quán karaoke Em Ca; Đ báo giá cho R 07(bảy) viên ma túy thuốc lắc và 01 gói ma túy Ketamine là 5.100.000 đồng (Năm triệu, một trăm ngàn đồng), R đồng ý và rủ Đ cùng sử dụng ma túy. Đ điều khiển xe mô tô hiệu Sirius biển kiểm soát số: 76D1-13202 đến trước quán karaoke Em Ca. Khi đến nơi Đ điện thoại cho H đến. H điều khiển xe mô tô hiệu SH, biển kiểm soát số: 43E1-53355 đến điểm hẹn. Đến khoảng 20h 30 phút cùng ngày, trong lúc Đ và H bán ma túy cho R thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H, TP. Đà Nẵng bắt quả tang, còn nam thanh niên tên R bỏ chạy không bắt được.

Tng trọng lượng ma túy mà Nguyễn Tấn H và Đặng Tân Nhật Đ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” là 2,736 gam ma túy (loại MAMD - mẫu H1a, H1b) và 0,497 gam ma túy (loại Ketamine - mẫu H1c).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Đà Nẵng đã quyết Đ: Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Tấn H và Đặng Tân Nhật Đ.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Tấn H và Đặng Tân Nhật Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn H 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 13/6/2019.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Tân Nhật Đ 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 13/6/2019.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết Đ về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 29/10/2019, bị cáo Nguyễn Tấn H có đơn kháng cáo và ngày 04/11/2019 bị cáo Đặng Tân Nhật Đ cũng có đơn kháng cáo cùng với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin xét xử theo trình tự phúc thẩm để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tấn H giữ Nnội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, riêng bị cáo Đặng Tân Nhật Đ bổ sung nội dung kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS là không đúng, nên đề nghị HĐXX xem xét để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Tấn H và Đặng Tân Nhật Đ theo đúng trình tự, thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.

Về nội dung: Xét về nội dung kháng cáo của các bị cáo thì thấy: Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Đ và luật sư người bào chữa cho bị cáo Đ cho rằng trong vụ án này bị cáo Đ chỉ thực hiện hành vi mua của H số lượng ma túy gồm: 07 (bảy) viên ma túy (loại thuốc lắc) và 01 (một) gói ma túy (loại Ketamine), sau đó đem số ma túy nói trên bán lại cho đối tượng tên R (không rõ nhân thân lai lịch) thì bị bắt quả tang. Do vậy, bị cáo Đ và luật sư cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đ theo tình tiết Đ khung quy Đ tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS là không đúng với quy Đ của pháp luật, chưa phù hợp với thực tế khách quan của vụ án, nên đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 251 BLHS xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử. Tuy nhiên, đại diện VKS cho rằng tài liệu, chứng và lời khai của các bị cáo tại hồ sơ vụ án thể hiện H mua của đối tượng tên Cảnh (không xác Đ nhân thân lai lịch) gồm 03 (ba) viên ma túy (loại thuốc lắc), và mua của đối tượng tên Q (không xác Đ nhân thân lai lịch) gồm 04 (bốn) viên ma túy (loại thuốc lắc) và 01(một) gói ma túy (loại Ketamine) gồm 02 (hai) lần và giao cho Đ 02 (hai) lần để Đ cất giấu số ma túy trên nhằm mục đích bán lại cho đối tượng tên R. Như vậy, căn cứ vào hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 về việc áp dụng một số quy Đ tại chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” về tình tiết Đ tội và tình tiết Đ khung “ phạm tội nhiều lần” được hiểu là từ 02 (hai) lần trở lên gồm: ( hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy trở lên; hai lần bán trái phép chất ma túy trở lên,…); Như vậy, bị cáo Đ nhận mua ma túy của H gồm 02 (lần) để tàng trữ nhằm mục đích bán lại cho đối tượng tên R (không xác Đ nhân thân lai lịch) thì bị bắt quả tang, là thuộc trường hợp phạm tội “từ 2 lần trở lên”. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo Nguyễn Tấn H 08 (tám) năm tù và bị cáo Đặng Tân Nhật Đ 07 (bảy) năm tù là phù hợp, không nặng. Sau khi xử sơ thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1, Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ NBản án sơ thẩm.

Luật sư Ông Văn C và luật sư Đỗ Thành Nhân người bào chữa cho bị cáo Đặng Tân Nhật Đ có chung luận cứ bào chữa cho bị cáo Đ như sau:

Về tội danh: Thống nhất như Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố đối với bị cáo Đặng Tân Nhật Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nên không có tranh luận về tội danh. Tuy nhiên, luận cứ bào chữa của luật sư Nhân và quan điểm luận cứ bào chữa của luật sư C tại phiên tòa đều không thống nhất về tình tiết Đ khung hình phạt theo điểm b, khoản 2 của điều luật mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng để xét xử đối với bị cáo Đ với lập luận như sau: Trong vụ án này Đ chỉ điện thoại hỏi mua của H số lượng ma túy gồm: 07 (bảy) viên ma túy (loại thuốc lắc) và 01(một) gói ma túy loại (Ketamine) theo yêu cầu của một đối tượng tên R (không rõ nhân thân lai lịch) đặt vấn đề mua của Đ và H đồng ý bán, việc H mua lại ma túy của đối tượng tên Cảnh và tên Q (đều không rõ nhân thân lai lich) để bán lại cho Đ thì Đ không biết. Tuy nhiên, việc H giao ma túy cho Đ gồm 02 (hai) lần là do H chỉ mua được của Cảnh 03 (ba) viên ma túy thuốc lắc không đủ số lượng nên H tiếp tục mua của Q 04 (bốn) viên ma túy thuốc lắc và 01(một) gói ma túy loại (Ketamine) cho đủ số lượng để giao cho Đ bán cho R theo đúng yêu cầu. Sau khi có đủ số lượng ma túy nói trên, Đ mang về nhà trọ cất giấu, đến 20 giờ ngày 13/6/2019 Đ đem số ma túy nói trên đến quán karaoke Em Ca để bán cho R thì bị bắt quả tang.

Như vậy, có căn cứ xác Đ Đ chỉ bán cho R 01(một) lần thì bị bắt. Vì vậy, việc các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm, truy tố, xét bị cáo Đ theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là không đúng với quy Đ của pháp luật, không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án. Do đó, các luật sư đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 251 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) có mức hình phạt từ 02 năm tù đến 07 năm tù để xem xét khi quyết Đ hình phạt cho bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nhân thân tốt không có tiền án, tiền sự, đã có một thời phục vụ trong quân đội nhân dân Việt Nam, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, người thân của bị cáo là những người có công cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy Đ khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) mà bị cáo được hưởng.

Với những lập luận trên các luật sư đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1, Điều 251, các điểm h, điểm i, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1,3 Điều 54 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) để xử phạt bị cáo Đ mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo Đ là nhằm thể hiện tính nhân đạo pháp luật XHCN, đồng thời cũng đủ tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Tấn H và Đặng Tân Nhật Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó HĐXX có đủ cơ sở để khẳng Đ: Khoảng 15 giờ ngày 13/6/2019 một đối tượng tên R (không rõ nhân thân lại lịch) điện thoại cho bị cáo Đ hẹn gặp để hỏi mua 07 (bảy) viên ma túy (loại thuốc lắc) và 01 gói ma túy (loại Ketamine) và được Đ đồng ý bán và nói giá khoảng 400.000đ/ 01viên (loại thuốc lắc) và 2.500.000đ/gói ma túy (loại Ketamine), tuy nhiên, về giá cụ thể cho từng loại bị cáo Đ sẻ báo sau và được R đồng ý mua và hẹn tối cùng ngày nhận ma túy địa điểm giao nhận R thông báo cho Đ. Sau khi thống nhất với R xong, Đ điện thoại cho H hỏi mua số lượng ma túy nói trên và được H đồng ý. Vì vậy, để có ma túy bán cho Đ theo yêu cầu, trong khoảng thời gian từ 17 giờ đến 17 giờ 30 ngày 13/6/2019 bị cáo H đã có 02 (hai) lần mua ma túy của các đối tượng tên Cảnh và tên Q (đều không rõ không nhân thân lai lịch) trong đó mua của Cảnh gồm 03 (ba) viên ma túy (loại thuốc lắc) với giá 1.000.000đ (Một triệu đồng) đưa cho Đ lần thứ nhất tại khu vực phía sau quán Karaoke Boom Boom, và mua của Q gồm 04 (bốn) viên ma túy (loại thuốc lắc) và 01(một) gói ma túy (loại Ketamine) với giá: 3.400.000đ (Ba triệu, bốn trăm ngàn đồng) đưa cho Đ lần thứ 02 (hai) tại ngã tư đường Q Trung – Trần Phú để Đ mang về phòng trọ cất giấu nhằm mục đích bán lại cho đối tượng tên R (không rõ nhân thân lai lich) tại khu vực phía trước quán Karaoke Em Ca thuộc tổ 08, phường M, quận H, TP. Đà Nẵng với giá 5.100.000 đồng (Năm triệu, một trăm ngàn đồng), theo thỏa thuận số tiền lời 700.000đ (Bảy trăm ngàn đồng) được chia đôi mỗi bị cáo 50% để tiêu xài. Tuy nhiên, khi bị cáo Đ đang giao dịch mua bán số số ma túy nói trên cho R vào lúc 20 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H, TP. Đà Nẵng bắt quả tang thu giữ tang vật. Tổng trọng lượng ma túy mà các bị cáo Nguyễn Tấn H và Đặng Tân Nhật Đ mua bán là: 2,736 gam (loại MAMD) và 0,497 gam ma túy (loại Ketamine ).Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” là có căn cứ đúng pháp luật.

[1.1] Về tình tiết Đ khung hình phạt theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) mà cấp sơ thẩm áp dụng để xét xử đối với các bị cáo HĐXX nhận thấy: Tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị H đều thừa nhận Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, bị cáo chỉ xin HĐXX xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nội dung kháng cáo này của bị cáo H HĐXX sẻ xem xét.

Riêng đối với bị cáo Đ tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo và các luật sư người bào chữa cho bị cáo thì cho rằng bị cáo chỉ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo tình tiết Đ khung quy Đ tại khoản 01 Điều 251 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) với lý do bị cáo chỉ mua của H 01(một) lần gồm 07 (bảy) viên ma túy (loại thuốc lắc) và 01(một) gói ma túy (loại Ketamine) để bán cho R 01(một) lần thì bị bắt quả tang. Do vậy, bị cáo Đ và các luật sư người bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX xem xét lại về tình tiết Đ khung này cho bị cáo để xét giảm nhẹ cho bị cáo mức hình phạt thấp hơn so với mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử.

[2] Xét nội dung đơn kháng cáo của các bị cáo, HĐXX thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Do đó, đối với các bị cáo cần phải xử lý nghiêm, việc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội là cần thiết.

[2.1] Đối với nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình nhẹ hình phạt của bị cáo H HĐXX xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết Đ khung hình phạt và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo H được hưởng, đồng thời xử phạt bị cáo H mức án 08 (tám) năm tù là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như vai trò của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới phát sinh, nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[2.2] Đối với nội dung kháng cáo của bị cáo Đ và luận cứ bào chữa của các luật sư người bào chữa cho bị cáo Đ HĐXX xét thấy rằng: Tại Thông tư liên tịch số: 17/2007/TTLT-VKSNDTC-TANDTC- BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy Đ tại chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” hướng dẫn về một số tình tiết là yếu tố Đ tội hoặc Đ khung hình phạt được hiểu như sau: tình tiết “phạm tội nhiều lần” được hiểu là đã có từ 02 (hai) lần phạm tội trở lên cụ thể (hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy trở lên , hai lần bán trái phép chất ma túy trở lên...) mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy Đ tại khoản 1 của điều luật tương ứng. Đối chiếu hướng dẫn trên cho thấy Đ mua của H số lượng ma túy gồm 07 (bảy) viên ma túy (loại thuốc lắc) và 01(một) gói ma túy (loại Ketamine) và số lượng ma túy trên được H mua của hai đối tượng Cảnh và Q (không rõ nhân thân lai lịch) gồm 02 (hai) lần và cũng giao lại cho Đ gồm 02 (hai) lần để tàng trữ nhằm mục đích bán lại cho đối tượng tên R như đã thỏa thuận thì bị bắt. Như vậy, số lượng ma túy mà Đ mua của H được giao nhận gồm 02 (hai) lần để tàng trữ nhằm mục đích bán lại cho đối tượng tên R để kiếm lời số tiền 700.000đ (Bảy trăm ngànđồng) chia đôi mỗi bị cáo 50% là thuộc trường hợp phạm tội “từ 02 lần trở lên”. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết Đ khung hình phạt phạm tội “từ 02 lần trở lên” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là đúng pháp luật, không oan. Vì vậy, nội dung kháng cáo này của bị cáo, cũng như luận cứ bào chữa của các luật sư là không có căn cứ nên không được HĐXX chấp nhận.

[2.3] Về nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và luận cứ bào chữa của các luật sư đề nghị HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại các điểm h “ Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc…không lớn”, điểm i “ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, điểm s “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, bị cáo có nhân thân tốt, có thời gian phục vụ trong quân đôi nhân dân Việt Nam, gia đình có người thân được Đảng, Nhà nước tặng thưởng huân, huy chương quy Đ tại khoản 1, khoản 2 Điều 51, qua đó, áp dụng khoản 1, 3 Điều 54 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức án thấp hơn so với cấp sơ thẩm HĐXX thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng quy Đ tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và xử phạt bị cáo Đ 07(bảy) năm tù ở ở mức khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp, không nặng, do đó, về yêu cầu của các luật sư đề nghị HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, điểm i, khoản 1 Điều 51 để áp dụng khoản 1, 3 Điều 54 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là không có căn cứ nên không chấp nhận. Vì vậy, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và các luận cứ bào chữa của các luật sư bào chữa cho bị cáo Đ tại phiên tòa, giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa là phù hợp.

[3] Các quyết Đ khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm a Khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Tấn H và Đặng Tân Nhật Đ, giữ NBản án sơ thẩm.

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn H: 08 (Tám) năm tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 13/6/2019.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Tân Nhật Đ: 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 13/6/2019.

2. Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết Đ khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 226/2019/HS-PT ngày 31/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:226/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về