Bản án 225/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 225/2019/HS-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 252/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2453/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN HỒNG Q, sinh năm: 1974 tại Bà Rịa-Vũng Tàu; Nơi thường trú: Không; Nơi cư trú: không có nơi ở nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Q (chết) và bà: Nguyễn Thị H (chết); có vợ (không đăng ký kết hôn) và 02 con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền sự: Không;

Tiền án:

Ngày 13/06/1992, bị Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh xử phạt 42 tháng tù về tội “Phá hủy phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia” (theo Bản án số 333/HSST) Ngày 09/01/1996, bị Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” (theo Bản án số 10/HSPT) Ngày 25/12/1997, bị Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” (theo Bản án số 2450/HSST) Ngày 06/05/2002, bị Tòa án nhân dân Quận X xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo Bản án số 344/HSST) Ngày 31/8/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh xử phạt 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (theo Bản án số 34/HSST).

Ngày 19/01/2010, bị Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (theo Bản án số 13/HSST) Ngày 08/01/2015, bị Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (theo Bản án số 08/HSST). Chấp hành xong án phạt tù ngày 24/10/2018.

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 06/01/2019 (Có mặt).

Bị hại: Ông BRK, sinh năm: 1949, quốc tịch: Mỹ.

Tm trú: 21 Lê Văn Tám, Tp. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 50 phút ngày 06/1/2019, ông BRK (quốc tịch: Mỹ) ngồi tại dãy ghế trong Công viên 23/9 phường PNL, Quận X, Tp.Hồ Chí Minh bên cạnh để 01 túi xách có đựng hộ chiếu và điện thoại di động Samsung Galaxy A8. Lúc này, Nguyễn Hồng Q điều khiển xe mô tô biển số 62S1-1183 chạy bên trong công viên nhìn thấy và nảy sinh ý định trộm cắp túi xách của ông BRK. Nguyễn Hồng Q điều khiển xe quay lại, đậu xe cách chỗ ông BRK khoảng 05m, rồi đi bộ vòng ra phía sau lưng ông BRK lén lút lấy chiếc túi xách rồi đeo phía trước ngực, nhanh chóng đi bộ về vị trí xe mô tô của Nguyễn Hồng Q để tẩu thoát. Ngay lúc này, người dân phát hiện tri hô, ông BRK đuổi theo và giằng co với Nguyễn Hồng Q làm xe máy ngã và chiếc túi xách từ trên người Nguyễn Hồng Q rơi xuống đất, ông BRK nhặt lại chiếc túi xách lên. Nguyễn Hồng Q dựng xe lên định bỏ chạy thì bị bảo vệ công viên cùng người dân xung quanh bắt giữ giao cho Công an phường PNL lập biên bản phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra, Nguyễn Hồng Q không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, qua lời khai của người bị hại là ông BRK các nhân chứng là anh Nguyễn Duy Sơn, anh Phạm Minh Linh và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã đủ căn cứ xác định Nguyễn Hồng Q là người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông BRK Ngày 14/3/2019, Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp thành phố có Bản Kết luận định giá tài sản số 1499/KL-HĐĐGTS kết luận: Điện thoại Samsung Galaxy A8 màu đen dung lượng 32 Gb, đã qua sử dụng trị giá 4.940.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

-01 túi xách; 01 hộ chiếu 530438201; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A8, màu đen dung lượng 32 Gb, đã qua sử dụng là tài sản của ông BRK, nên đã trả lại cho ông BRK.

-01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen, số imei 1:810123600003743, số imei 2: 810124600003743 (thu của Nguyễn Hồng Q) đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong máy.

-01 xe mô tô hai bánh không xác định loại Trung Quốc biển số 62S1-1183 không có số khung; số máy: VUMCRYG150FMH-9G600495, không gương, bửng, vỏ bị bể, trầy xước, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra.

Kết quả tra cứu dữ liệu quản lý xe vật chứng ghi nhận xe mô tô có số máy VUMCRYG150FMH-9G600495 không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng.

Xác minh biển số 62S1-1183 xác định do ông Nguyễn Minh X là người đứng tên đăng ký xe trình bày, ông X mua xe vào khoảng năm 2008 với giá khoảng 7 triệu đồng đến cuối năm 2010 bán cho người khác với giá khoảng 2 triệu đồng không làm thủ tục công chứng sang tên và không có thông tin người mua xe. Nguyễn Thị Kim C (chung sống như vợ chồng với Nguyễn Hồng Q khai mua xe mô tô biển số 62S1-1183 của một người tên Dũng (không xác định được lai lịch) đưa cho Nguyễn Hồng Q sử dụng, không biết Nguyễn Hồng Q sử dụng vào việc phạm tội.

Về dân sự: Bị hại là ông BRK đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường dân sự.

Tại Bản cáo trạng số: 176/CT-VKS-P2 ngày 06/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Hồng Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Q 04 – 05 năm tù và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Bị cáo Nguyễn Hồng Q thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại ông BRK vắng mặt và không yêu cầu bồi thường dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của bị cáo:

Căn cứ vào lời khai của người bị hại, người làm chứng, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện: Vào khoảng 13 giờ 50 phút ngày 06/01/2019, ông BRK (quốc tịch: Mỹ) ngồi tại dãy ghế trong Công viên 23/9 phường PNL, Quận X, Tp.Hồ Chí Minh, bên cạnh để 01 túi xách có đựng hộ chiếu và điện thoại di động Samsung Galaxy A8. Lúc này, bị cáo Nguyễn Hồng Q điều khiển xe mô tô biển số 62S1-1183 chạy bên trong công viên nhìn thấy và nảy sinh ý định trộm cắp túi xách của ông BRK. Nguyễn Hồng Q điều khiển xe quay lại, đậu xe cách chỗ ông BRK khoảng 05m, rồi đi bộ vòng ra phía sau lưng ông BRK lén lút lấy chiếc túi xách rồi đeo phía trước ngực, nhanh chóng đi bộ về vị trí xe mô tô của mình để tẩu thoát. Ngay lúc này, người dân phát hiện tri hô, ông BRK đuổi theo và giằng co với Nguyễn Hồng Q làm xe máy ngã và chiếc túi xách từ trên người Nguyễn Hồng Q rơi xuống đất, ông BRK nhặt lại chiếc túi xách lên. Nguyễn Hồng Q dựng xe lên định bỏ chạy thì bị bảo vệ công viên cùng người dân xung quanh bắt giữ giao cho Công an phường PNL lập biên bản phạm tội quả tang. Sự việc trên có sự chứng kiến và tham gia của những người làm chứng là anh Nguyễn Duy Sơn, anh Phạm Minh Linh. Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 1499/KL-HĐĐGTS ngày 14/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp thành phố kết luận chiếc điện thoại Samsung Galaxy A8 màu đen dung lượng 32 Gb, đã qua sử dụng có trị giá 4.940.000 đồng.

Quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Hồng Q không thừa nhận hành vi phạm tội tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hồng Q thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Hồng Q đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Hồng Q là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án đủ nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Bị cáo Nguyễn Hồng Q đã có nhiều tiền án chưa được xóa án tích lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm do đó bị cáo bị truy tố theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là phù hợp.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông BRK đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen, số imei 1:810123600003743, số imei 2: 810124600003743 (thu của Nguyễn Hồng Q) đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong máy. Điện thoại này là tài sản cá nhân của bị cáo không có liên quan đến việc phạm tội nghĩ nên giao trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 xe mô tô hai bánh không xác định loại Trung Quốc biển số 62S1- 1183 không có số khung; số máy: VUMCRYG150FMH-9G600495, không gương, bửng, vỏ bị bể, trầy xước, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra. Kết quả tra cứu dữ liệu quản lý xe vật chứng ghi nhận xe mô tô có số máy VUMCRYG150FMH-9G600495 không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Xác minh biển số 62S1-1183 xác định do ông Nguyễn Minh X là người đứng tên đăng ký xe trình bày, ông X mua xe vào khoảng năm 2008 với giá khoảng 7 triệu đồng đến cuối năm 2010 bán cho người khác với giá khoảng 2 triệu đồng không làm thủ tục công chứng sang tên và không có thông tin người mua xe. Nguyễn Thị Kim C (chung sống như vợ chồng với Nguyễn Hồng Q khai mua xe mô tô biển số 62S1-1183 của một người tên Dũng (không xác định được lai lịch) đưa cho Nguyễn Hồng Q sử dụng, không biết Nguyễn Hồng Q sử dụng vào việc phạm tội. Xét thấy chiếc xe trên bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội và bà Nguyễn Thị Kim C không xuất trình được giấy tờ có liên quan đến xe để chứng minh chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe do đó chiếc xe trên sẽ bị tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hồng Q 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 06/01/2019.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

+Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe mô tô hai bánh không xác định loại Trung Quốc biển số 62S1-1183 không có số khung; số máy: VUMCRYG150FMH-9G600495, không gương, bửng, vỏ bị bể, trầy xước, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra.

+Giao trả cho bị cáo Nguyễn Hồng Q 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen, số imei 1:810123600003743, số imei 2: 810124600003743 đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong máy.

(Biên bản giao nhận tang tài vật số 272/19 ngày 14/5/2019 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh)

- Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 13/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Hồng Q phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án .hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 225/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:225/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về