Bản án 224/2019/HS-PT ngày 31/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 224/2019/HS-PT NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 228/2019/HSPT ngày 11/07/2019 đối với bị cáo Lê Ngọc B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 133/2019/HS-ST ngày 03/06/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Ngọc B - Sinh năm 1996, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Ngọc T và bà: Lê Thị H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Hiện nay bị cáo đang tại ngoại – Có mặt.

- Người bị hại: Bà Nguyễn Thị H1 - Sinh năm: 1944 - Vắng mặt ;

Cư trú tại: Tổ dân phố T, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Huy T1 – Sinh năm: 1981 – Vắng mặt.

Trú tại: Tổ dân phố T, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 18/02/2019, Lê Ngọc B đên nhà anh Nguyễn Huy T1 tại hẻm 257 đường N, phường T, thành phố B để ở và chờ đi làm công trình xây dựng cùng với anh T1 tại thị xã G, tỉnh Đắk Nông. Khi ở nhà anh T1, B thấy bà Nguyễn Thị H1 (mẹ của anh T1) hay để tiền dưới nệm trên đầu giường ở trong phòng bếp nơi bà H1 thường hay ngủ. Khoảng 07h00’ ngày 23/02/2019, B được bà H1 gọi dậy để chở cháu Nguyễn Bảo L (con anh T1) đi học tại Trường Mầm non HM, trên đường P, thành phố B. Sau đó, B dậy đi ra sau phòng bếp đánh răng và rửa mặt, thì thấy bà H1 đi vào phòng ngủ của cháu L để gọi cháu L dậy và thay đồ cho cháu L để đi học. Thấy vậy, B nảy sinh ý định trộm cắp số tiền bà H1 để tiêu xài. B đi đến đầu giường nơi bà H1 ngủ lật chiếc nệm lên thì thấy bọc tiền có nhiều tờ mệnh giá 500.000 đồng được để trong bịch nilon màu trắng và được cột bằng dây thun màu vàng. B lấy bọc tiền trên bỏ vào túi quần rồi đi ra phòng khách lấy chiếc xe Mô tô hiệu Yamaha Sirius (chưa đăng ký biển số) của anh T1 chở cháu L đi học. Sau khi chở cháu L đến trường xong, trên đường đi về nhà anh T1, B sợ bị gia đình anh T1 phát hiện nên đã mang số tiền trộm cắp được của bà H1 cất giấu dưới các viên gạch xây dựng ở lô đất trống trên đường Y nối dài thuộc tổ dân phố T, phường T, thành phố B.

Đến khoảng 08h00’ cùng ngày, bà H1 phát hiện bị mất số tiền 18.805.000 đồng nên đã trình báo Cơ quan Công an. Cùng ngày tại Cơ quan Công an, B đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình, đồng thời Cơ quan Công an đưa B đến nơi B cất giấu số tiền trộm cắp của bà H1 và thu giữ số tiền 18.805.000 đồng (trong đó gồm 37 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng), đồng thời trả lại toàn bộ số tiền này cho bà H1.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 133/2018/HS-ST ngày 03-6-2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Ngọc B phạm tội: “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Ngọc B 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 13/6/2019, bị cáo Lê Ngọc B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Ngọc B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng và Bản án hình sự sơ thẩm cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Ngọc B về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đùng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù là thỏa đáng, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt cũng như các quyết định khác của Bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 23/02/2019 tại nhà của anh Nguyễn Huy T1 ở số 257 đường Đ, phường T, thành phố B, bị cáo Lê Ngọc B đã lén lút chiếm đoạt số tiền 18.805.000 đồng của bà Nguyễn Thị H1. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Ngọc B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện. Bởi lẽ, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại và đã khắc phục toàn bộ hậu quả. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, được người bị hại bãi nại, đồng thời bị cáo có thời gian đi nghĩa vụ quân sự và nhất thời phạm tội. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là thỏa đáng.

[3] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bi kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Ngọc B, sửa Bản án hình sự sơ thẩm sô: 133/2019/HS-ST ngày 03 - 6 - 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Lê Ngọc B 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

[2] Về án phí: Bị cáo Lê Ngọc B không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bi kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 224/2019/HS-PT ngày 31/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:224/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về