Bản án 224/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 224/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 188/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 9 năm 2019 về việc "Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: chị Đỗ Thị Nhật L, sinh năm: 1997

Địa chỉ: xóm 16, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định.

Bị đơn: anh Phạm Văn T, sinh năm 1992

Địa chỉ: xóm 16, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định.

(Tại phiên tòa chị L và anh T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 13 tháng 9 năm 2019 được bổ sung tại bản khai ngày 30 tháng 9 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Đỗ Thị Nhật L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Phạm Văn T kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã X ngày 18/02/2014. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hòa thuận và đã có 01 con chung. Khoảng đầu năm 2019 anh chị xảy ra mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, anh T lại có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Chị và gia đình khuyên can không được. Anh chị đã ly thân từ tháng 6/2019 đến nay. Anh T không liên lạc gì với chị nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị được ly hôn anh T.

Về con chung: anh chị có 01con chung là Phạm Minh N sinh ngày 10/3/2014 hiện đang ở với chị .Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung cho chị.

Về tài sản, công nợ: chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị Bị đơn là anh Phạm văn T vắng mặt tại phiên Tòa mặc dù Tòa án đã niêm yết thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng có liên quan và giao cho bố đẻ anh là ông Phạm Xuân L nhưng ông L chỉ thừa nhận là có nhận được các văn bản của Tòa án nhưng anh T đi làm ăn trong miền Nam nên ông không thông báo được cho anh T. Ông cũng thừa nhận anh T và chị L chung sống không hạnh phúc, gia đình khuyên bảo không được, chị L về nhà mẹ đẻ ở, anh T đi Nam làm ăn nhưng ông lại không ký văn bản xác nhận lời khai của mình.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến là trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng qui định tố tụng dân sự. Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83 Luật HNGĐ đề nghị giải quyết cho chị Đỗ Thị Nhật L ly hôn anh Phạm Văn T. Con chung giao cho chị nuôi chấp nhận chị không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con cho chị. Án phí chị L nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Anh Phạm Văn T vắng mặt tại phiên tòa và đã được Tòa án niêm yết Thông báo thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng có liên quan và gửi cho bố anh là ông Phạm Văn L. Ông Lai xác nhận vợ chồng anh chị sống không hạnh phúc nhưng không ký văn bản xác nhận lời khai của ông. Chị L có đơn xin xét xử vắng mặt chị. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh và chị theo quy định điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[2]. Chị Đỗ Thị Nhật L và anh Phạm Văn T kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã X nên đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo hộ. Sau khi cưới anh chị chung sống hòa thuận đến đầu năm 2019 mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, chị L nghi ngờ anh T ngoại tình, đã ly thân từ khoảng tháng 6 năm 2019đến nay. Mặc dù được Tòa án thông báo việc chị L xin ly hôn bằng nhiều hình thức nhưng anh T không về Tòa làm việc chứng tỏ anh không còn thiết tha với hôn nhân của mình. Xét thấy cuộc sống hôn nhân của anh chị không thể tồn tại được nên chấp nhận cho họ ly hôn để mỗi bên lo hạnh phúc. 

[3]. Về con chung: Chị L đề nghị nuôi con không yêu cầu anh T cấp dưỡng. Xét thấy con chung đang ở với chị, anh thì làm ăn xa. Do đó chấp nhận để chị L nuôi con chung và chấp nhận sự tự nguyện của chị không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con cho chị.

[4]. Về tài sản, công nợ đương sự không yêu cầu, Tòa án không xem xét.

[5]. Về án phí: chị L phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Xử cho ly hôn giữa chị Đỗ Thị Nhật L và anh Phạm Văn T.

2. Về con chung: Giao cho chị Đỗ Thị Nhật L trực tiếp nuôi con chung Phạm Minh N sinh ngày 10/3/2014, chấp nhận chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con cho chị. Anh T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: chị L phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn được trừ vào số tiền 300.000 đồng chị đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường theo biên lai thu tiền số: 0001629 ngày 23 tháng 9 năm 2019.

Chị L và anh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 224/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn

Số hiệu:224/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về