TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT – TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 223/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 205/2020/HSST ngày 18 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 247/2020/QĐXXST-HS ngày 24/11/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 275/2020/QĐXXST-HS ngày 09/12/2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Quốc T (tên gọi khác: Rí), sinh ngày 22/12/1985 tại Bình Thuận; Giới tính: nam; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: khu phố 1, phường Xuân A, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm 1958. Cùng trú tại: khu phố 1, phường Xuân A, thành phố P; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; Tiền án: Không; Tiền sự:
- Ngày 09/5/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 12 tháng. Chấp hành xong ngày 27/3/2019 (theo giấy chứng nhận về việc chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 174/GCN-CSĐTNMT ngày 27/2/2019);
- Ngày 16/4/2020 bị Công an phường Phú T xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. (Theo QĐ số 51113/QĐ-XPHC).
Nhân thân: Ngày 20/8/2004, bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc xử phạt 09 tháng tù về hành vi Trộm cắp T sản (tại bản án số 49/HSST/2004). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/04/2005; Ngày 04/06/2007, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 03 năm tù về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy (tại bản án số 94/HSST/2007) Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/6/2009; Ngày 14/5/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 05 năm 6 tháng tù về hành vi Cố ý gây thương tích (tại bản án số 78/HSST/2013) Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/04/2017; Ngày 23/7/2003 bị Công an phường Xuân An, thành phố Phan Thiết xử phạt 100.000 đồng về hành vi đánh nhau gây rối trật tự công cộng; Ngày 31/12/2003 bị Công an phường Xuân An, thành phố Phan Thiết xử phạt 200.000 đồng về hành vi chống lại người phát hiện bắt giữ; Ngày 06/01/2004 bị Chủ tịch UBND phường Xuân An, thành phố Phan Thiết áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày 07/01/2004 về hành vi trộm cắp, gây rối tại địa phương nhiều lần; Ngày 01/09/2005 có hành vi trộm cắp gà, bị Công an phường Xuân An, thành phố Phan Thiết xử phạt hành vi hành chính; Ngày 04/04/2006 có hành vi trộm cắp gà, bị Công an phường Xuân An, thành phố Phan Thiết xử phạt hành vi hành chính; Ngày 24/10/2017 bị Chủ tịch UBND phường Xuân An, thành phố Phan Thiết áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày 24/10/2017 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Chấm dứt ngày 04/04/2018 theo Quyết định số 6 (Do T tiếp tục nghiện hút nên lập hồ sơ đưa đi cai nghiện bắt buộc); Ngày 06/5/2020 thực hiện hành vi trộm cắp T sản (Gà) tại xã Hàm Đ, huyện Hàm Thuận B, tỉnh Bình Thuận, hiện Công an xã Hàm Đức đã bàn giao hồ sơ cho Công an huyện Hàm Thuận Bắc để xử lý theo quy định; Ngày 12/5/2020 thực hiện hành vi trộm cắp T sản (thùng xe kéo) tại xã Hàm Thắng, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận, hiện Công an xã Hàm Thắng đã bàn giao hồ sơ cho Công an huyện Hàm Thuận Bắc để xử lý theo quy định;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: 1/ Bà Lê Thị Thu L, sinh năm 2001. Nơi cư trú: thôn Ba B, xã Hàm T, huyện Hàm Thuận N, tỉnh Bình Thuận Vắng mặt.
2/ Ông Mai Quang D, sinh năm 1964. Nơi cư trú: khu phố 2, phường Xuân A, thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Chí H, sinh năm 1991. Nơi cư trú: Thôn 1, xã Hồng S, huyện Hàm Thuận B, Bình Thuận. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các Tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong khoảng thời gian từ ngày 26/5/2020 đến ngày 20/6/2020, Nguyễn Quốc T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp T sản trên địa bàn thành phố Phan Thiết, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Khoảng 15 giờ ngày 26/5/2020, Nguyễn Quốc T điều khiển xe mô tô đi trên đường trở về nhà tại phường Xuân A, thành phố P, khi tới vị trí đối diện số nhà 27 đường Bùi V (thuộc khu phố 5, phường Phú T, thành phố P), T thấy một xe mô tô hiệu Airblade, màu vàng đen biển số 63B5-188.39 của chị Lê Thị Thu L (sinh năm 2001, trú tại thôn Ba B, xã Hàm T, huyện Hàm Thuận N, tỉnh Bình Thuận) dựng trên lề đường đối diện nhà số 27, trên xe còn cắm chìa khóa, không có ai trông coi nên T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô trên để bán lấy tiền tiêu xài. T điều khiển xe mô tô của mình về nhà, sau đó đón xe ôm đi đến ngã tư đường Bùi V và đường Tôn Đức T rồi đi bộ tới vị trí đối diện số nhà 27 đường Bùi V, lén lút đến vị trí chiếc xe 63B5-188.39, mở khóa, nổ máy điều khiển về nhà của anh Bùi Chí H (sinh năm 1991, trú tại thôn 1, xã Hồng S, huyện Hàm Thuận B, tỉnh Bình Thuận) để gửi xe và ngủ lại qua đêm. Sau khi bị mất T sản, chị Lê Thị Thu L đã đến Công an phường Phú Thủy trình báo sự việc. Qua truy xét các đối tượng khả nghi, ngày 27/5/2020 Cơ quan điều tra đã đưa T về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan điều tra, T khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp T sản như trên. Trên cơ sở lời khai của T , Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ tang vật tại nhà anh Bùi Chí H 01 xe mô tô hiệu Airblade màu vàng đen, biển số 63B5-188.39, số máy: JF40E2098203, số khung: 4615EY637971 mà T đã chiếm đoạt được của bị hại.
Tại bản kết luận định giá T sản số 184/KL-HĐĐG, ngày 14/8/2020 của Hội đồng định giá T sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận giá trị T sản như sau: 01 chiếc xe mô tô hiệu Airblade màu vàng đen 63B5-188.39, số máy: JF40E2098203, số khung: 4615EY637971 có giá trị 27.000.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô trên cho chủ sở hữu, sau khi nhận lại T sản chị Lê Thị Thu L không yêu cầu Nguyễn Quốc T bồi thường thêm về phần dân sự.
Vụ thứ hai: Khoảng 16 giờ ngày 19/6/2020, Nguyễn Quốc T đi bộ trên đường Bùi Thị X (thuộc khu phố 1, phường Xuân A, thành phố P), phát hiện trên bãi đất trống (kế bên số nhà 233) có chuồng nuôi gà của ông Mai Quang D (sinh năm 1964, trú tại khu phố 2, phường Xuân A, thành phố P), xung quanh được bao lưới B40, nên T nảy sinh ý định trộm cắp. Khoảng 01 giờ ngày 20/6/2020, T mang theo kềm bấm và nhặt một bao tải nhỏ màu xanh trong thùng rác trên đường rồi đi đến bãi đất trống kế bên số nhà 233 trên đường Bùi Thị X để trộm cắp gà. Khi đến nơi, T dùng kềm bấm lưới B40 bao quanh bãi đất trống rồi vào trong trộm cắp 02 con gà (gồm 01 con gà trống và 01 con gà mái), sau đó T bỏ vào trong bao tải nhỏ và định đi về nhà. Lúc này anh Trần Văn T (sinh năm 1986, HKTT: khu phố 2, phường Phú Tr, Phan T và anh Nguyễn Hoàng Dương H (sinh năm 1982, HKTT: khu phố 14, phường Phú T, Phan T) đi công việc ngang qua, thấy T có biểu hiện nghi vấn nên anh Tấn và Hào có dừng lại hỏi thì T bỏ chạy. Thấy vậy anh T và anh H đuổi theo và bắt giữ, T thừa nhận vừa thực hiện hành vi trộm gà nên anh T và anh H đưa T đến Công an phường Xuân A trình báo.
Tại bản Kết luận định giá T sản số 178/KL-HĐĐG ngày 14/8/2020 của Hội đồng định giá T sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận: 01 (một) con gà nòi trống lông đen nặng 03 kg và 01 (một) con gà mái lông đen nặng 02 kg có tổng giá trị là 500.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng trả lại 02 con gà trên cho chủ sở hữu, sau khi nhận lại T sản ông D không yêu cầu Nguyễn Quốc T bồi thường thêm về phần dân sự.
Quá trình điều tra, Nguyễn Quốc T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của của mình như trên.
Với hành vi nêu trên, ngày 09 tháng 11 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết ra bản cáo trạng số 200/CT-VKS truy tố bị cáo Nguyễn Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phát biểu lời luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi lén lút chiếm đoạt T sản của chị Lê Thị Thu L và ông Mai Quang D, do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Nguyễn Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật hình sự. Nguyễn Quốc T đã 02 lần thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” mà mỗi lần đều cấu thành tội phạm độc lập nên thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị báo đã thành khẩn khai báo nên đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị báo. Từ phân tích trên, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 01 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T từ 02 (hai) năm đến 03 (ba) năm tù.
Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc bao tải nhỏ màu xanh mà T đã nhặt để đựng gà (hiện đã chuyển đến Cơ quan thi ành án) do không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
Tại phiên tòa, bị cáo không trình bày lời bào chữa, không tranh luận gì với Viện kiểm sát, đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như lời kết tội của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và Tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận, tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, cũng như lời khai của người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 26/5/2020 đến ngày 20/6/2020, Nguyễn Quốc T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp T sản trên địa bàn thành phố Phan Thiết, cụ thể:
Lần thứ nhất: Khoảng 15 giờ ngày 26/5/2020, tại khu phố 5, phường Phú Thủy, thành phố Phan Thiết. Nguyễn Quốc T đã lén lút trộm cắp xe mô tô biển số 63B5-188.39 trị giá 27.000.000 đồng của chị Lê Thị Thu L sau đó mang đến gửi tại nhà anh Bùi Chí H ở xã Hồng S, huyện Hàm Thuận B, chưa kịp tiêu thụ thì bị phát hiện.
Lần thứ hai: Khoảng 01 giờ ngày 20/6/2020, tại khu phố 2 phường Xuân A, thành phố Phan T. Nguyễn Quốc T đã có hành vi lén lút trộm cắp 02 con gà (gồm 01 con gà trống lông màu đen nặng 3kg và 01 con gà mái lông đen nặng 02 kg) có tổng trị giá 500.000 đồng của ông Mai Quang D thì bị phát hiện bắt giữ cùng tang vật. Mặc dù trị giá T sản mà T chiếm đoạt của ông Mai Quang D nhỏ hơn 2.000.000 đồng, nhưng ngày 16/4/2020 Nguyễn Quốc T đã bị Công an phường Phú T , thành phố Phan Thiết ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp T sản nên hành vi của Nguyễn Quốc T đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi và thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý. Do đó Cáo trạng số 200 ngày 06/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố bị cáo T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Nguyễn Quốc T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc lén lút chiếm đoạt T sản của người khác là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, vì muốn có tiền tiêu xài phục vụ cho nhu cầu cá nhân mà bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, hành vi này của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu về T sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử phạt nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” mà mỗi lần đều cấu thành tội phạm độc lập nên thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô hiệu Airblade màu vàng đen 63B5-188.39, số máy: JF40E2098203, số khung: 4615EY637971 đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Lê Thị Thu L; Đối với 02 con gà (gồm 01 con gà trống lông màu đen nặng 3kg và 01 con gà mái lông đen nặng 02 kg) đã trả lại cho anh Mai Quang D. Các bị hại đã nhận lại T sản và không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không đưa ra để xem xét. Đối với 01 bao tải nhỏ màu xanh là vật chứng của vụ án nhưng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[6] Về bồi thường dân sự: Chị Lê Thị Thu L và ông Mai Quang D đã nhận lại T sản và không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự nên HĐXX không đưa ra để xem xét.
Đối với anh Bùi Chí H là người cho T gửi xe và ngủ qua đêm mà không biết xe mô tô hiệu Airblade màu vàng đen 63B5-188.39 do T trộm cắp được mà có. Do đó không xem xét, xử lý trách nhiệm hình sự đối với anh H là có căn cứ.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ: khoản 01 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc T 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giam 11/12/2020.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tịch thu tiêu hủy chiếc bao tải nhỏ màu xanh (theo biên bản giao nhận vật chứng số 53 ngày 07/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết).
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/12/2020). Bị hại chị Lê Thị Thu L và anh Mai Quang D vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
Bản án 223/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 223/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về