Bản án 222/2018/HNGĐ-ST ngày 20/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 222/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 687/2018/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 218/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 134/2018/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lâm Thị L, sinh năm 1991 (có mặt). Địa chỉ: Ấp G, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Anh Trần Thanh V, sinh năm 1986 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp G, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/6/2018 và tại phiên tòa, nguyên đơn Chị Lâm Thị L trình bày tóm tắt như sau:

Chị L và Anh Trần Thanh V cưới nhau năm 2008, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Tân Phú, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 09/3/2009. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Nguyên nhân là do Anh V thường đánh bài, tiền của dành dụm không còn. Chị L nhiều lần khuyên Anh V thay đổi nhưngkhông có kết quả, tình cảm vợ chồng đã rạn nứt, không thể hàn gắn nên Chị L yêu cầu  Tòa án giải quyết cho ly hôn với Anh V.

Về con chung: Chị L xác định chị với Anh V có 02 đứa con chung tên Trần Thị Trúc Lâm, sinh ngày 14/4/2010 và Trần Gia Minh, sinh ngày02/8/2017. Khi ly hôn, Chị L yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi 02 con chung, yêu cầu Anh V cấp dưỡng nuôi con 02 con chung mỗi tháng 2.000.000đ.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị L xác định hai bên không có tài sản chung, không có nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, bị đơn Anh Trần Thanh V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng Anh V không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của Chị L. Anh V cũng không đến Tòa án tham gia phiên họp kiểm tra chứng cứ và phiên hòa giải. Nguyên đơn Lâm Thị Liên có đơn đề nghị Tòa án không hòa giải vụ án. Do đó, vụ án được đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở trình bày của đương sự, qua thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Anh V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án thể hiện nội dung khởi kiện của Chị L nhưng Anh V không có ý kiến trình bày, không đến Tòa tham gia các phiên họp kiểm tra chứng cứ, hòa giải. Chị L có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Vụ án được đưa ra xét xử là đúng quy định của pháp luật. Bị đơn Trần ThAnh V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt, căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân: Chị Lâm Thị L và Anh Trần Thanh V cưới nhau năm 2008, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Tân Phú, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 09/3/2009, nên quan hệ hôn nhân của Chị L và Anh V chỉ được pháp luật thừa nhận là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Xét yêu cầu ly hôn của Chị L, Hội đồng xét xử thấy rằng: Anh V đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án thể hiện việc Chị L xin ly hôn với anh tại Tòa án nhưng Anh V không có ý kiến, không thể hiện ý chí muốn đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên Tòa Chị L xác định không còn tình cảm gì với Anh V và cương quyết ly hôn. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân của hai bên đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình số 52/2014/QH13, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của Chị L đối với Anh V.

3. Về quyền nuôi con chung: Anh V không có ý kiến nào phản đối yêu cầu của Chị L về người có quyền trực tiếp nuôi con chung khi ly hôn. Tại phiên tòa, Chị L xác định chị và Anh V có 02 đứa con chung tên Trần Thị Trúc Lâm, sinh ngày 14/4/2010 và Trần Gia Minh, sinh ngày 02/8/2017. Khi ly hôn, Chị L yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi 02 con chung. Xét thấy yêu cầu được nuôi hai con chung của Chị L là nguyện vọng chính đáng. Tại bản tự khai ngày 01/8/2018 cháu Trần Thị Trúc Lâm có nguyện vọng được sống chung với mẹ. Hơn nữa từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay Chị L là người trực tiếp nuôi 2 con chung, Chị L vẫn đảm bảo các điều kiện tốt để nuôi dạy và chăm sóc hai con chung. Do đó, trên cơ sở cân nhắc điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của các bên và để đảm bảo cho sự ổn định, phát triển bình thường của cháu Lâm và cháu Minh.

Căn cứ quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao cháu Lâm và cháu Minh cho Chị L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên Tòa Chị L rút một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu Anh V cấp dưỡng nuôi con, xét sự tự nguyện của đương sự không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên được chấp nhận. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Chị Lâm Thị L đối với yêu cầu Anh Trần Thanh V cấp dưỡng nuôi con.

[2.4]. Về chia tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trường hợp đương sự có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con, chia tài sản chung, nợ chung thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

[3]. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ tại Điều 6, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn Chị Lâm Thị L phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 5, Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 202, Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13; Các Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13; Các Điều 6, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Lâm Thị L xin ly hôn với Anh Trần Thanh V.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Chị Lâm Thị L yêu cầu Anh Trần Thanh V cấp dưỡng nuôi con.

1. Về hôn nhân: Chị Lâm Thị L được ly hôn với Anh Trần Thanh V.

2. Về người trực tiếp nuôi dưỡng con chung: Chị L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung tên tên Trần Thị Trúc Lâm, sinh ngày 14/4/2010 và Trần Gia Minh, sinh ngày 02/8/2017.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Trần Thanh V không phải cấp dưỡng nuôi hai con chung do Chị L không có yêu cầu.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của bên không trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con, cùng các thành viên gia đình không được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con của bên không trực tiếp nuôi con.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì Chị L, Anh V, người thân thích của cháu Lâm, cháu Minh, Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình, Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định của pháp luật.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lâm Thị L phải chịu 300.000đ. Chuyển 300.000đ tiền tạm ứng án phí Chị L đã nộp theo biên lai thu số 0002638 ngày 18/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang thi hành án phí nên Chị L đã nộp đủ án phí. Anh V không phải nộp án phí.

3. Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự  thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 222/2018/HNGĐ-ST ngày 20/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:222/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về