Bản án 22/2021/HS-ST ngày 10/03/2021 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 10 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2021/TLST- HS ngày 29 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn N, sinh năm 1974 tại xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình (Tên gọi khác: Không). Nơi cư trú: Thôn 5, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ văn hoá: 10/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Trần Văn M (đã chết) và bà Hoàng Thị Ng, sinh năm 1944; có vợ là Đinh Thị Ph và có 03 con (con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2014).

Tiền án: Không.

Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 16/QĐ-XPHC ngày 29/10/2020 của Công an xã Ph, huyện N xử phạt Trần Văn N số tiền 1.000.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”. Ngày 02/11/2020, Trần Văn N đã chấp hành xong.

Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Bùi Văn N, sinh năm 1964. Địa chỉ: Thôn 4, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Có mặt.

+ Ông Quách Văn S, sinh năm 1979. Địa chỉ: Thôn 4, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

+ Ông Bùi Mạnh Tr, sinh năm 1965. Địa chỉ: Thôn 4, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 23/12/2020, Trần Văn N cùng Bùi Văn N sinh năm 1964; Quách Văn S sinh năm 1979; Bùi Mạnh Tr sinh năm 1965 đều trú tại thôn 4, xã Ph, huyện N ăn cơm uống rượu tại nhà Bùi Văn N. Sau khi ăn xong trong khi ngồi chơi uống nước thì Bùi Văn N rủ Quách Văn S, Bùi Mạnh Tr, Trần Văn N đánh bạc thì mọi người đồng ý. Sau đó Quách Văn S liền đi mua bộ bài lơ khơ 52 quân về làm công cụ đánh bạc. Bùi Văn N, Quách Văn S, Bùi Mạnh Tr và Trần Văn N ngồi tại chiếu đã được trải sẵn tại gian bếp của gia đình Nam. Trước khi vào đánh bạc Bùi Văn N, Quách Văn S, Bùi Mạnh Tr và Trần Văn N đã thống nhất đánh bạc bằng hình thức đánh “Liêng” được thua bằng tiền, mức cá cược mỗi ván bài thấp nhất là 10.000 đồng, cao nhất là 50.000 đồng. Bùi Văn N, Quách Văn S, Bùi Mạnh Tr và Trần Văn N bắt đầu ngồi đánh bạc từ 21 giờ 45 phút ngày 23/12/2020 đến 23 giờ 30 phút cùng ngày đã bị Công an xã Ph đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát phát hiện bắt giữ. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 2.100.000 đồng, 01 bộ bài lơ khơ 52 quân, 01 chiếu cói.

Quá trình điều tra đã chứng minh số tiền mà Bùi Văn N, Quách Văn S, Bùi Mạnh Tr và Trần Văn N sử dụng vào mục đích đánh bạc là 2.100.000 đồng, chưa đủ lượng để cấu thành tội “Đánh bạc”. Riêng Trần Văn N là người đang có 01 tiền sự về hành vi “Đánh bạc” chưa được xóa nên Nam phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 10/CT - VKS ngày 29/01/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Trần Văn N về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm tội “Đánh bạc”.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điểm i, s khoản, khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Khấu trừ mỗi tháng 05% đến 7% thu nhập của bị cáo Trần Văn N trong thời gian chấp hành án để sung quỹ Nhà nước.

Đề nghị phạt bổ sung bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý về vật chứng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của bị cáo biết lỗi về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản vi phạm hành chính, phù hợp với tang vật đã thu giữ. Mặt khác được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ căn cứ để kết luận:Trong khoảng thời gian từ 21 giờ 45 phút đến 23 giờ 30 phút ngày 23/12/2020 tại gian bếp của gia đình ông Bùi Văn N ở thôn 5, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Trần Văn N là người đang có 01 tiền sự về hành vi “Đánh bạc”, chưa được xóa đã cùng với Bùi Văn N, Quách Văn S, Bùi Mạnh Tr đánh bạc bằng hình thức đánh “Liêng” được thua bằng tiền với số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 2.100.000 đồng.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản , khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Điều 321. Tội đánh bạc 1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

………………………………………… 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi đánh bạc của bị cáo là cố ý, tính chất tội phạm là ít nghiêm trọng đã xâm phạm trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương là nguyên nhân gây nên nhiều tội phạm khác.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt với bị cáo, HĐXX cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy:

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc bằng được thua bằng tiền nhằm tạo ra thu nhập bất chính bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi“Đánh bạc” chưa được xóa, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội bị cáo gây ra. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội lần đầu, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số tiền huy động vào việc đánh bạc không lớn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: không có.

Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, chấp hành nghiêm chỉnh báo gọi của cơ quan tiến hành tố tụng, vì vậy không nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù với bị cáo mà để bị cáo cải tạo rèn luyện tại địa phương cũng đủ sức răn đe và giáo dục.

Trong vụ án này đối với Bùi Văn N, Quách Văn S, Bùi Mạnh Tr là những người tham gia đánh bạc cùng với Trần Văn N với số tiền sử dụng để đánh bạc là 2.100.000 đồng. Xét về nhân thân của những người này đều không có tiền án, tiền sự về tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; số tiền sử dụng đánh bạc dưới 5.000.000đồng. Công an huyện N đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Bùi Văn N, Quách Văn S, Bùi Mạnh Tr là phù hợp.

[3]. Về hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập: Cần áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Xét bị cáo là lao động tự do, thu nhập thấp vì vậy cần khấu trừ thu nhập với các bị cáo là 5%/tháng trong thời gian chấp hành hình phạt.

[4]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 2.100.000 đồng, là tiền có liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 bộ bài lơ khơ 52 quân, 01 chiếu cói là công cụ sử dụng vào việc phạm tội, xét không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm tội “Đánh bạc”.

* Áp dụng: Khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn N 09(Chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Khấu trừ mỗi tháng 05% thu nhập của bị cáo Trần Văn N trong thời gian chấp hành án để sung quỹ Nhà nước.

Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng) sung ngân sách Nhà nước.

2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 2.100.000đồng.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài lơ khơ 52 quân, 01 chiếu cói là công cụ sử dụng vào việc phạm tội (Chi tiết theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2021/HS-ST ngày 10/03/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:22/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về