Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 31/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TG, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 75/TLST - HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2021 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2021/QĐST - HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Cà Thị V; Sinh năm 1984; Nơi cư trú: Bản C, xã Q, huyện TG, tỉnh Điện Biên.

Bị đơn: Anh Lò Văn Đ; Sinh năm 1990; Nơi cư trú: Bản C, xã Q, huyện TG, tỉnh Điện Biên.

(Chị V có mặt, anh Đ vắng mặt lần 2 không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 23/02/2021 và bản tự khai ngày 17/3/2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Cà Thị V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Cà Thị V và anh Lò Văn Đ kết hôn với nhau ngày 10/6/2010 tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện TC, tỉnh Điện Biên. Chị V và anh Đ kết hôn tự nguyện, không ai bị ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách không hợp, bất đồng về quan điểm sống, anh Đ không chịu khó làm ăn chăm lo cho gia đình dẫn tới mắc tệ nạn xã hội, hai bên gia đình đã khuyên bảo nhưng anh Đ không thay đổi. Chị V và sanh Đ đã sông ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay. Từ thời điểm sống ly thân giữa chị và anh Đ không còn quan tâm đến nhau nữa. Chị V xác định không còn tình cảm với anh Đ, vì vậy chị V đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Chị V khai vợ chồng có 01 con chung là Lò Thị Như Q, sinh ngày 10/7/2011. Hiện tại cháu Q đang ở cùng với chị V ở bản C, xã Q, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Khi ly hôn chị V có nguyện vọng được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Q đến khi thành niên và có khả năng lao động. Không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: Chị V khai nhận là không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Toà án nhân dân huyện TG đã gửi Thông báo thụ lý vụ án cho anh Lò Văn Đ qua đường bưu điện nhưng anh Đ không có nhà, sau đó Tòa án cũng tiến hành niêm yết công khai Thông báo thụ lý vụ án và cùng các tài liệu chứng cứ cho anh Lò Văn Đ tại Nhà văn hoá bản C, Trụ sở UBND xã Q và Trụ sở Toà án nhân dân huyện TG.

Ngày 01/3/2021, Tòa án xác minh thông tin của ông Lò Văn O (Trưởng bản C, xã Q) về sự vắng mặt của anh Đ, tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi con giữa anh Đ và chị V. Ông O cho biết: Hiện tại anh Đ đang đi làm thuê, không thường xuyên có mặt tại địa phương. Hiện tại anh Đ vẫn có hộ khẩu ở bản C, xã Q, huyện TG. Anh Đ và chị V có xảy ra mâu thuẫn, anh Đ và chị V đã sống ly thân được một năm nay. Chị V và anh Đ có 1 con chung là Lò Thị Như Q, sinh ngày 10/7/2011 hiện tại chị V đang là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc, anh Đ hay đi làm xa ít quan tâm đến cháu Q. Đối với tài sản chung và nợ chung không có. Ngoài ra ông O cũng không cho biết gì thêm.

Cùng ngày 01/3/2021, Toà án tiến hành xác minh thông tin của ông Lò Minh Nghĩa, Phó trưởng Công an xã Q, huyện TG. Ông Nghĩa cho biết: Anh Lò Văn Đ hiện tại đi làm thuê ít khi có mặt tại địa phương, anh Đ đi làm ở đâu không khai báo với chính quyền địa phương nhưng vẫn đang có hộ khẩu thường trú tại bản C, xã Q, huyện TG.

Ngày 17/3/2021 Tòa án đã Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo về việc mở phiên họp đã được Tòa án niêm yết công khai tại Nhà văn hoá bản C, Ủy ban nhân dân xã Q và trụ sở Tòa án nhân dân huyện TG nhưng anh Đ vẫn cố tình vắng mặt mà không có lý do. Ngày 31/3/2021 Tòa án nhân dân huyện TG đã thông báo kết quả phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và làm thủ tục niêm yết theo quy định của pháp luật cho anh Lò Văn Đ. Chị V cũng đã có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải do vậy đây là vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Khoản 1, Khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 26/4/2021 Tòa án nhân dân huyện TG đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; ngày 14/5/2021 mở phiên tòa và đã Quyết định hoãn phiên tòa số 10/QĐST - HNGĐ, ngày 14/5/2021 để đảm bảo quyền lợi cho anh Đ. Tuy nhiên đến phiên tòa lần thứ hai anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ.

Việc anh Đ cố tình không chấp hành giấy báo, giấy triệu tập không có mặt tại phiên tòa và được Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt là tự từ bỏ quyền của mình khi tham gia tố tụng nên Tòa án nhân dân huyện TG vẫn tiến hành giải quyết theo thủ tục chung.

Chị V có mặt tại phiên toà, anh Đ vắng mặt lần 2 không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện TG: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong thời gian chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa đều đã tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị V; Về con chung: Căn cứ Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Lò Thị Như Q, sinh ngày 10/7/2011 cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên và có khả năng lao động, chị V không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con; Về quan hệ tài sản: Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14, miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện về việc nguyên đơn chị Cà Thị V xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Lò Văn Đ và các tài liệu chứng cứ kèm theo, Tòa án xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn là anh Lò Văn Đ có hộ khẩu thường trú tại bản C, xã Q, huyện TG, tỉnh Điện Biên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TG theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về điều luật áp dụng: Chị Cà Thị V và anh Lò Văn Đ kết hôn năm 2010, Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để xem xét tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân và áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[4]. Về việc xét xử vắng mặt bị đơn: Ngày 31/5/2021 Tòa án nhân dân huyện TG đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án. Bị đơn anh Lò Văn Đ vắng mặt lần 2 không có lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[5]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Cà Thị V và anh Lò Văn Đ kết hôn ngày 10/6/2010, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện TC, tỉnh Điện Biên. Chị V khai nhận hai vợ chồng kết hôn tự nguyện, không ai bị ép buộc theo quy định tại Khoản 2 Điều 9, Khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quan hệ hôn nhân của chị V và anh Đ là hợp pháp. Chị V có đơn xin ly hôn với anh Đ là do tính cách không hợp, bất đồng về quan điểm sống, anh Đ không chịu khó làm ăn chăm lo cho gia đình, chị V khai do chơi bời nên anh Đ còn mắc tệ nạn xã hội, hai bên gia đình đã khuyên bảo nhưng anh Đ không thay đổi. Chị V và anh Đ đã sông ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay. Từ thời điểm sống ly thân giữa chị và anh Đ không còn quan tâm đến nhau. Chị V xác định không còn tình cảm với anh Đ nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Đ. Tại Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 01/3/2021, chính quyền địa phương cũng thừa nhận chị V và anh Đ có mâu thuẫn, anh Đ và chị V đã sống ly thân với nhau gần một năm nay. Hội đồng xét xử xét thấy chị V và anh Đ đã ly thân từ tháng 8/2020 cho đến nay, trong thời gian ly thân và từ thời điểm Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đến nay giữa chị V và anh Đ không còn đi lại thăm nom, quan tâm chăm sóc lẫn nhau và cũng không điện thoại hỏi thăm nhau, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được. Anh Đ đã được Toà án thông báo về việc chị V xin ly hôn với anh, nhưng anh Đ không có ý kiến gì gửi cho Toà án. Ngày 31/3/2021 chị V có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vì chị V xác định không còn tình cảm với anh Đ, chị vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án cho ly hôn với anh Đ. Do đó việc chị V xin ly hôn với anh Đ là phù hợp với quy định tại Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Cà Thị V được ly hôn với anh Lò Văn Đ.

[6]. Về con chung: Chị V và anh Đ có 01 con chung là Lò Thị Như Q, sinh ngày 10/7/2011. Hiện tại cháu Q đang ở cùng với chị V ở bản C, xã Q, huyện TG, tỉnh Điện Biên. Khi ly hôn chị V có nguyện vọng được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Q đến khi thành niên và có khả năng lao động. Không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung. Tại Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi con ngày 01/3/2021 chính quyền địa phương cũng xác nhận cháu Q hiện do chị V nuôi dưỡng, chăm sóc. Tại phiên tòa chị V khai ngoài làm ruộng, chị còn đi làm thêm thu nhập bình quân từ 5.000.000đồng đến 6.000.000 đồng/tháng đảm bảo nuôi dưỡng cháu Q. Tại đơn nguyện vọng ngày 23/02/2021 có nguyện vọng xin được ở với chị V, vì chị V có điều kiện chăm sóc, quan tâm cháu Q nhiều hơn anh Đ. Vì vậy xét đề nghị của chị V là phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp nguyện vọng của cháu Q và ý kiến đánh giá của chính quyền địa phương, mặt khác trong quá trình giải quyết vụ án anh Đ không có mặt tại Tòa án cũng như không có bất cứ ý kiến gì về việc nuôi dưỡng con chung. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu Q, Hội đồng xét xử xét thấy nên giao cháu Q cho chị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi thành niên và có khả năng lao động là phù hợp với quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chị V không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: Chị V khai không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

[8]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chị V phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm, tuy nhiên chị V là người dân tộc thiểu số cư trú tại Bản C, xã Q, huyện TG, tỉnh Điện Biên thuộc xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Căn cứ điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị V được miễn án phí DSST.

[9]. Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TG là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 272; Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự;

- Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 1, khoản 2 Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên xử: Nguyên đơn chị Cà Thị V được ly hôn với bị đơn anh Lò Văn Đ.

2. Về con chung: Giao cháu Lò Thị Như Q, sinh ngày 10/7/2011 cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên và có khả năng lao động. Chị V không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Lò Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trường hợp anh Lò Văn Đ lợi dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì chị V có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh Đ.

Vì lợi ích của các con khi có lý do chính đáng, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: Chị V khai không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

4. Về án phí: Chị V được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Cà Thị V được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/5/2021). Anh Lò Văn Đ được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 31/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về