Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐT, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 475/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2020, về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2011/QĐST - HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1980; Địa chỉ: Thôn TT, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1977; Địa chỉ: Thôn TT, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt lần thứ hai, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/10/2020, bản tự khai ngày 15/12/2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày: Chị chung sống cùng anh Nguyễn Văn Đ, trên cơ sở tình yêu, tự nguyện, đăng ký kết hôn năm 1999 tại Ủy ban nhân dân xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống tại thôn TT, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống hạnh phúc được 04 (bốn) năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Đ chơi bời, có mối quan hệ với những người phụ nữ khác, không chung thủy, nên vợ chồng hay đánh, cãi chửi nhau. Bản thân chị đã nhiều lần tìm biện pháp hàn gắn vợ chồng nhưng vẫn không có kết quả. Anh chị đã ly thân từ tháng 12/2020 cho đến nay, chị đã về nhà mẹ đẻ sinh sống, không ai quan tâm đến cuộc sống riêng của ai. Trong quá trình Tòa án giải quyết ly hôn, anh Đ thường xuyên vô cớ gây sự với chị, thậm chí khi thư ký Tòa án đến tống đạt văn bản, anh Đ không làm việc và còn đe dọa đánh chị nếu chị vẫn cố tình ly hôn. Vì vậy, chị cảm thấy rất áp lực, không thể ổn định được cuộc sống. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc, nên đề nghị được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

Về con chung, vợ chồng chị có 02 con chung là Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1999 và Nguyễn Thùy L, sinh ngày 01/10/2015.

Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đến nay, nguyên đơn chị Trần Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xin ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về con chung: Chị L đề nghị được nuôi con chung Nguyễn Thùy L, sinh ngày 01/10/2015, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

* Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và thông báo về các phiên họp, phiên hòa giải theo quy định, nhưng đều vắng mặt không có lý do.

Ngày 05/3/2021, Toà án nhân dân thị xã Đông Triều đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với chị L và anh Đ. Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh Đ vẫn vắng mặt nên Toà án đã hoãn phiên toà vì vắng mặt bị đơn. Tại phiên tòa ngày 28/4/2021 anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do.

Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh Đ, địa phương cung cấp như sau: Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Văn Đ là công dân cư trú tại thôn TT, xã BD, thị xã ĐT. Trong quá trình chung sống anh chị đôi lúc xảy ra xô xát, cãi nhau. Thỉnh thoảng, chị Lựu có về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Hiện tại, chị L và anh Đ sống ly thân với nhau, chị L đang sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ cùng con gái là cháu Nguyễn Thùy L, sinh ngày 01/10/2015. Việc chị L có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn anh Đ, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa quá trình tiến hành tố tụng, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Nguyên đơn quá trình tham gia tố tụng đã chấp hành và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Trần Thị L. Giao con chung Nguyễn Thùy L, sinh ngày 01/10/2015 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Trần Thị L xin ly hôn anh Nguyễn Văn Đ, có hộ khẩu thường trú tại thôn TT, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã ĐT, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Văn Đ chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là cuộc hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống, anh chị không hợp nhau về tính cách, vợ chồng thường xuyên va chạm, xích mích, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Do không hòa giải được mâu thuẫn, không có tiếng nói chung, nên chị L đã bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống, không ai quan tâm đến cuộc sống riêng của ai.

Quá trình giải quyết, Tòa án đã có thông báo về việc thụ lý vụ án, đã thông báo về việc mở phiên họp, phiên hòa giải để chị L và anh Đ có điều kiện gặp gỡ, thỏa thuận với nhau về những vấn đề có tranh chấp. Anh Nguyễn Văn Đ đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, được thông báo về thời gian, địa điểm mở phiên họp, phiên hòa giải nhưng vắng mặt, không có lý do. Trong thời gian Tòa án giải quyết vụ án, anh Đ thường xuyên đe dọa, gây áp lực đối với chị L. Như vậy có thể thấy anh Nguyễn Văn Đ không còn mong muốn vợ chồng hòa giải, khắc phục những mâu thuẫn trở về đoàn tụ.

Từ đó xác định: Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Văn Đ không còn tình cảm với nhau, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên cần chấp nhận cho chị L được ly hôn anh Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung: Chị L và anh Đ có có 02 con chung là Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1999 (đã trưởng thành) và Nguyễn Thùy L1, sinh ngày 01/10/2015. Khi vợ chồng ly thân, cháu L1 vẫn ở cùng chị L, được chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển bình thường, chị L cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con. Còn anh Đạt đến thời điểm xét xử không có quan điểm cụ thể về việc nuôi dưỡng con chung. Do đó, cần giao con chung cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, chị L không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

Trong quá trình nuôi dưỡng con chưa thành niên, nếu xét thấy người trực tiếp nuôi con không đủ điều kiện hoặc lợi ích của con chưa thành niên không được đảm bảo thì căn cứ Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, các đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh Đ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, khoản 1 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị L.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

[2]. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị L có quyền và nghĩa vụ trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục con chung là Nguyễn Thùy L1, sinh ngày 01/10/2015, kể từ tháng 4 năm 2021 đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi), anh Nguyễn Văn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Chị L cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[3]. Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000333 ngày 05/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Chị L đã nộp đủ án phí dân sự ly hôn sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về