Bản án 22/2021/DS-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 22/2021/DS-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 363/2020/TLST-DS ngày 19 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp: “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 363/2020/QĐXX-ST ngày 25 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng V.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết T.

Chức vụ: Tổng giám đốc.

Địa chỉ trụ sở chính: số xxx, phố L, phường H, quận H, thành phố H.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Long T1 - Chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch Ngân chính sách xã hội huyện K– Chi nhánh Ngân hàng V Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng tại Tòa án:

Ông Nguyễn Văn B– Chức vụ Phó giám đốc Phòng giao dịch Ngân chính sách xã hội huyện K– Chi nhánh Ngân hàng V.

Địa chỉ trụ sở phòng giao dịch: ấp A, thị trấn K, huyện K, tỉnh S.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm: 1960.

Địa chỉ: ấp x, xã T, huyện K, tỉnh S.

3 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Võ Văn M, sinh năm 1965. Anh Võ Tuấn K, sinh năm 1989.

Cùng địa chỉ: ấp x, xã T, huyện K, tỉnh S.

(Đại diện Ngân hàng có mặt; Các đương sự còn lại đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 17/11/2020, các lời khai có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn là Ngân hàng V – người đại diện theo ủy quyền là ông Đỗ Long Thảo trình bày:

Vào ngày 22/10/2007 Ngân hàng V và bà Nguyễn Thị T2 có ký kết giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay, theo đó bà Tuyết sẽ được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay số tiền 6.000.000 đồng.

Mục đích vay: Chăn nuôi heo nái.

Thời hạn vay: 60 tháng.

Lãi suất tại thời điểm giải ngân là 0,65%/ tháng, tiền vốn và lãi phát sinh trả 12 tháng/01 kỳ, hạn trả cuối là ngày 18/10/2012.

Đến ngày 18/10/2008, Ngân hàng V và bà Nguyễn Thị T2 tiếp tục ký kết giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay, theo đó bà Tuyết sẽ được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay số tiền 33.800.000 đồng.

Mục đích vay: chi phí học tập cho sinh viên Võ Tuấn K.

Thời hạn vay: 108 tháng.

Lãi suất tại thời điểm giải ngân là 0,5%/tháng, tiền vốn và lãi phát sinh trả 06 tháng/01 kỳ, hạn trả cuối là ngày 18/10/2017.

Cộng chung, hộ bà Nguyễn Thị T2 đã vay của Ngân hàng V số tiền vốn vay là 39.800.000 đồng.

Sau khi vay tiền, hộ Nguyễn Thị T2 không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền vốn và lãi phát sinh theo thỏa thuận và cũng không thanh toán nợ gốc khi đến hạn, gây thiệt hại đến quyền lợi của ngân hàng.

Vì vậy, Ngân hàng V yêu cầu bà Nguyễn Thị T2, ông Võ Văn M và anh Võ Tuấn K phải cùng chịu trách nhiệm thanh toán số tiền vốn vay còn nợ là 39.800.000 đồng và lãi phát sinh tính đến ngày 03/02/2021.

Bị đơn là bà Nguyễn Thị T2 vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Võ Văn M và anh Võ Tuấn K cùng vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng phát biểu:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định Bộ luật tố tụng Dân sự. Tư cách của người tham gia tố tụng tuân thủ theo đúng quy định của Điều 68, 70, 71, 72, 234 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Về nội dung: Theo các tài liệu thể hiện trong hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhận thấy yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V là có căn cứ một phần vì vậy đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, buộc bà Nguyễn Thị T2 và ông Võ Văn M cùng chịu trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng. Riêng anh Võ Tuấn K không có ký tên vào hồ sơ vay vốn nên anh Khanh không có nghĩa vụ cùng trả nợ.

Về án phí và chi phí tố tụng: đề nghị Hội đồng xét xử quyết định theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên Tòa, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai những vắng mặt không rõ lý do và cũng không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đồng thời cũng không có yêu cầu phản tố. Xét thấy, Tòa án nhân dân huyện Kế Sách đã tiến hành các thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Cho nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có căn cứ và đúng với quy định tại khoản 2, Điều 227 và khoản 3, Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dấn sự năm 2015.

[2] Về chứng cứ trong vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có cung cấp chứng cứ là Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay ngày 18/10/2007; Sổ lưu tờ rơi theo dõi cho vay ngày 21/10/2008 đều thể hiện việc nguyên đơn có cho hộ gia đình bị đơn vay số tiền 39.800.000đ, trong đó, vay dùng để phục vụ chi phí học tập cho anh Võ Tuấn Anh là 33.800.000 đồng và vay để phục vụ kinh tế hộ gia đình là 6.000.000 đồng. Xét thấy, mặc dù bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt và không có ý kiến gì, tuy nhiên, cần phải xác định rằng, chính sách hỗ trợ học sinh sinh viên và hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình là một trong những chính sách lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta nhằm phát triển con người, phát triển kinh tế của hộ gia đình nói riêng và phát triển bền vững cho xã hội nói chung. Đây là những chính sách, định hướng của Đảng và Nhà nước được mọi người trong xã hội biết đến và thừa nhận. Như vậy, đã đủ cơ sở để xác định, giữa nguyên đơn và bị đơn cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện giao dịch về tài sản thông qua các đề nghị hỗ trợ vay vốn có kỳ hạn và có lãi theo quy định của pháp luật là có thật.

Mặt khác, tại khoản 1 Điều 91 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 có quy định “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp...”; tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 có quy định: “.... Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó ...” và tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 có quy định “ Đương sự có nghĩa vụ đưa ra những chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án”. Xét thấy, sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành các thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho bị đơn cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như: thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa; các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập được. Trong đó, thông báo về việc thụ lý vụ án đã ghi rõ nội dung sự việc, yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn, nhưng phía bị đơn cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đến Tòa án để giải quyết vụ án, không có ý kiến phản hồi về yêu cầu của nguyên đơn, không phản đối yêu cầu khởi kiện và các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, đồng thời cũng không có yêu cầu phản tố. Như vậy bị đơn cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã tự tước bỏ quyền chứng minh và quyền cung cấp chứng cứ của mình. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét các ý kiến và các yêu cầu của bị đơn cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà đã có đủ căn cứ để xác định chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp là hoàn toàn hợp lệ, phù hợp với quy định tại Điều 93, Điều 94 và Điều 95 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn: Tại phiên Tòa, nguyên đơn yêu cầu bị đơn cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ số tiền vay còn nợ. Xét thấy, việc bị đơn vay tiền với mục đích sử dụng vì lợi ích chung của hộ gia đình, cho nên, bị đơn cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải cùng có trách nhiệm và nghĩa vụ thanh toán nợ cho nguyên đơn là phù hợp. Do bị đơn cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không thanh toán tiền vốn vay và lãi phát sinh cho nguyên đơn là đã vi phạm thỏa thuận giữa các bên, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Cho nên, yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng chịu trách nhiệm thanh toán số tiền vốn vay còn nợ là 39.800.000 đồng và 1.758.000 đồng tiền lãi phát sinh tính đến ngày 03/02/2021. Cộng chung là 41.558.000 đồng (bốn mươi mốt triệu năm trăm năm mươi tám ngàn đồng) là chính đáng, có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 103 và Điều 280 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Yêu cầu về tiền của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải cùng chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Đối với ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách cho rằng, anh Võ Tuấn K không có trách nhiệm cùng trả nợ với bà Nguyễn Thị T2 và ông Võ Văn M do không có ký tên vào Giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay. Xét thấy, việc bà Nguyễn Thị T2 vay tiền là nhằm phục vụ phát triển kinh tế hộ gia đình và phục vụ nhu cầu học tập của anh Võ Tuấn K. Vì vậy, anh Võ Tuấn K với tư cách là thành viên hộ gia đình và là đối tượng thụ hưởng chính của những khoản vay. Cho nên, anh Võ Tuấn K phải cùng chịu trách nhiệm trả nợ cùng với cha mẹ ruột là bà Nguyễn Thị T2 và ông Võ Văn M là phù hợp với quy định của pháp luật và thực tế tại địa phương. Cho nên, Hội đồng xét xử không chấp nhận ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát về nội dung này.

Đối với các ý kiến còn lại của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1, khoản 2, khoản 4 Điều 91, Điều 93, Điều 94, Điều 95, Điều 147, khoản 2, Điều 227, khoản 3, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 103, Điều 280, Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 Căn cứ khoản 16 Điều 4, Điều 12, Điều 90, Điều 91, Điều 95 và Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, được sửa đổi bổ sung năm 2017 Văn bản hợp nhất số 07/VBHN-VPQH ngày 12/12/2017 của Văn phòng Quốc hội.

Căn cứ Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/8/2016 và công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014;

Căn cứ Điều 7, Điều 8 và Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng V. Buộc bà Nguyễn Thị T2, ông Võ Văn M và anh Võ Tuấn K cùng chịu trách nhiệm trả cho Ngân hàng V số tiền vốn vay còn nợ là 39.800.000 đồng và 1.758.000 đồng tiền lãi phát sinh tính đến ngày 03/02/2021. Cộng chung là 41.558.000 đồng (bốn mươi mốt triệu năm trăm năm mươi tám ngàn đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm bà Nguyễn Thị T2, ông Võ Văn M và anh Võ Tuấn K còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thoả thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng vay vốn, các bên có thoả thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng V thì lãi suất mà bà Nguyễn Thị T2, ông Võ Văn M và anh Võ Tuấn K phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng V theo quyết định của Toà án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng V.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Mức lãi suất hai bên thỏa thuận là mức lãi suất nợ quá hạn các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp, các bên không có thỏa thuận về mức lãi suất nợ quá hạn thì mức lãi suất nợ quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn.

[2] Về án phí:

Ngân hàng V không phải chịu tiền án phí DSST. Do Ngân hàng V không nộp tiền tạm ứng án phí thuộc trường hợp quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 11 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nên xem như xong, không có hoàn lại gì.

Bà Nguyễn Thị T2, ông Võ Văn M và anh Võ Tuấn K phải cùng chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 2.077.900 đồng (hai triệu không trăm bảy mươi bảy ngàn chín trăm đồng).

Án xử công khai, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có mặt tại phiên Tòa và có mặt khi tuyên án.

Bà Nguyễn Thị T2, ông Võ Văn M và anh Võ Tuấn K không có mặt tại phiên Tòa và cũng không có mặt khi tuyên án mà không có lý do chính đáng.

Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên Tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên Tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các qui định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

867
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2021/DS-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:22/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về