Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 03/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 22/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 03/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số: 08/2020/TLST-HNGĐ, ngày 08 tháng 01 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 23/4/2020; Thông báo về việc dời phiên tòa xét xử số 12/TB-TA ngày 04/5/2020;

Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18/5/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Châu Minh P, sinh năm 1988 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: ấp Gò S, xã P, huyện H, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Chị Trần Mỹ N, sinh năm 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: đường Trần Hưng Đạo, khóm A, phường B, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/01/2020 (BL 01); biên bản lấy lời khai ngày 18/02/2020 (BL 18) cũng như quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Châu Minh P trình bày: Vào năm 2011 anh Châu Minh P và chị Trần Mỹ N có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Long An và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 04/3/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại ấp Gò S, xã P, huyện H, tỉnh Long An. Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, nhưng về sau thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn cãi vã nhau nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt và không thể khắc phục được nên từ năm 2013 chị N trở về nhà cha mẹ ruột của chị để sống và hai người ly thân cho đến nay.

Thời gian chung sống với nhau anh P và chị N có 01 người con chung tên Châu Trần Gia H, sinh ngày 23/10/2012 (Nam) hiện cháu H đang sống cùng anh P (cháu H không phát triển tốt về thể chất lẫn tinh thần từ khi mới sinh ra). Về tài sản chung tự thỏa thuận phân chia với nhau, nợ chung không có.

Nay anh P nhận thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, hạnh phúc hôn nhân tan vỡ không thể hàn gắn được. Do đó yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh P được ly hôn với chị N; Về con chung anh P yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Châu Trần Gia H, không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung tự thỏa thuận phân chia với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị N, nhưng chị N không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của anh P, đồng thời chị N cũng không đến tham gia phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho anh P được ly hôn với chị N, giao con chung là cháu Châu Trần Gia H cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của anh P không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung tự thỏa thuận phân chia với nhau, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho chị N, nhưng chị N vẫn vắng mặt không có lý do, anh P có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt anh P, chị N theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu khởi kiện của anh Châu Minh P, nhận thấy anh P và chị N tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2011, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Long An và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 04/3/2011. Quan hệ hôn nhân của anh P và chị N không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một thời gian chung sống, đến năm 2012 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do bất đồng ý kiến thường xảy ra mâu thuẫn với nhau và khi chị N sinh con ra bị khuyết tật đến năm 2013 chị N bỏ con lại cho anh P nuôi dưỡng và hai người ly thân cho đến nay. Anh P nhận thấy cuộc sống chung không hạnh phúc, không còn tình cảm vợ chồng với chị N nên có nguyện vọng ly hôn. Anh P và chị N đã không còn chung sống từ năm 2013 cho đến nay, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho anh P được ly hôn với chị N.

[3] Về con chung: Thời gian chung sống với nhau anh P và chị N có 01 người con chung tên Châu Trần Gia H, sinh ngày 23/10/2012 (Nam); hiện cháu H đang sống với anh P. Anh P yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cháu Châu Trần Gia H vì từ khi mới sinh ra cháu H bị khuyết tật bẩm sinh và chị N đã bỏ đi cho đến nay. Để đảm bảo cuộc sống của cháu H không bị xáo trộn, từ khi cháu H mới sinh ra thì chị N đã bỏ đi và anh P là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu được nuôi con của anh P đối với cháu Châu Trần Gia H. Về cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, anh P hiện có việc làm, thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện nuôi con và hàng tháng cháu H được nhà nước trợ cấp nhận tiền khuyết tật nên việc anh P không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của anh P không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung : Anh P khẳng định tài sản chung tự thỏa thuận phân chia với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Anh P khẳng định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Án phí sơ thẩm: Anh P phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tu yên xử :

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Châu Minh P.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Châu Minh P được ly hôn với chị Trần Mỹ N.

- Về con chung: Giao con chung Châu Trần Gia H, sinh ngày 23/10/2012 (Nam) cho anh Châu Minh P trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Trần Mỹ N không phải cấp dưỡng nuôi con, chị N được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở. Chị N không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Châu Trần Gia H của anh Châu Minh P thì anh P có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom.

- Về tài sản chung: Anh P khẳng định tài sản chung tự thỏa thuận phân chia với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Anh P khẳng định nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2/ Về án phí sơ thẩm: Anh Châu Minh P phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền ứng án phí anh P đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai số 0000661, ngày 08/01/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, anh P đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí. Chị Trần Mỹ N không phải chịu án phí sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 03/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:22/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về