Bản án 22/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn T, sinh ngày 01 tháng 6 năm 1996, tại xã Q, huyện Quảng Trạch (nay là thị xã B), tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Thợ điện; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn A và bà Trần Thị B; chưa có vợ, con; về nhân thân: ngày 29/9/2017 có hành vi gây rối trật tự công cộng bị Công an xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình xử phạt vi phạm hành chính; ngày 31/8/2017 hủy hoại tài sản của người khác bị Công an xã Q, thị xã B xử phạt vi phạm hành chính; ngày 22/02/2019 bị Công an thị xã B khởi tố về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam về tội “Cướp giật tài sản” từ ngày 22/02/2019 cho đến nay. Theo Lệnh trích xuất bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Trần Trung H, sinh ngày 09 tháng 8 năm 2001, tại xã Q, huyện Q (nay là thị xã B), tỉnh Quảng Bình, tên gọi khác: Cu Chó. Nơi cư trú: Thôn L, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Tiến D và bà Lê Thị M; về nhân thân: ngày 29/9/2017 có hành vi gây rối trật tự công cộng bị Công an xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình xử phạt vi phạm hành chính; ngày 22/02/2019 bị Công an thị xã B khởi tố về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam về tội “Cướp giật tài sản” từ ngày 22/02/2019, đến ngày 08/5/2019 thì được áp dụng biện pháp "bảo lĩnh" cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

3. Trần Văn M, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1998, tại xã Quảng V, huyện Q (nay là thị xã B), tỉnh Quảng Bình; tên gọi khác: Cu Em. Nơi cư trú: Thôn L, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H và bà Mai Thị D; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 04/3/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

4. Mai Ngọc A, sinh ngày 11 tháng 5 năm 1997, tại xã Q, huyện Q (nay là thị xã B), tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Thôn L, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 01/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Ngọc H và bà Phạm Thị N; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 04/3/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Trần Trung H: Bà Phan Thị Bích T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Trần Trung H: Ông Trần Tiến D, sinh năm 1967 (bố của bị cáo H); nơi cư trú: Thôn L, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

Những người bị hại: Anh Nguyễn Hồng Q và chị Hoàng Thị P; cùng cư trú: Tổ dân phố X, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

Những người làm chứng:

- Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1969; nơi cư trú: Khu phố 4, phường B, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

- Anh Trần Đức H, sinh năm 1995, nơi cư trú: Thôn L, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

- Bà Hoàng Thị L, sinh năm 1952; nơi cư trú: Thôn L, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

- Anh Phạm Văn D, sinh năm 1993, nơi cư trú: Thôn L, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ tối ngày 06/10/2018, Phạm Văn T, Trần Văn M, Trần Trung H và Mai Ngọc A ngồi chơi tại khu vực trước cửa nhà của M. Khi cả nhóm đang ngồi chơi, thì T nói “Trước đây tau đi làm sơn tít trên tàu cá ở phường Q nên biết trên tàu cá có Tăng - Phô và biết cách lấy”. T rủ H, M và Ngọc A cùng đi trộm cắp về bán lấy tiền tiêu xài cá nhân nên H, M và Ngọc A đồng ý. Sau đó,T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu JUPITER MAX, sơn màu đen - xám, biển kiểm soát 73N4-7062 chở H ngồi phía sau, còn M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu TAURUS, màu đỏ, biển kiểm soát 99K1-3431 chở Ngọc A ngồi phía sau, chạy theo đường nội thị để đến phường Q, thị xã B. Khi đến phường Q, T và M điều khiển xe chạy theo đường bê tông dọc bờ sông để tìm tàu nào neo đậu không có người trông coi thì lên lấy trộm. Khi đến đoạn đường bê tông thuộc địa phận tổ dân phố M, phường Q, thì phát hiện thấy có tàu đánh cá số hiệu QB98778TS của vợ chồng chị Hoàng Thị P và anh Nguyễn Hồng Q đang neo đậu trên bờ để sửa chữa. Cả nhóm dừng xe cách tàu khoảng 20m, Ngọc A ở lại trông giữ xe mô tô và cảnh giới, còn T, H và M đi bộ đến rồi trèo lên tàu để tìm tài sản lấy trộm. Khi vào bên trong tàu, T lục tìm được 01 tuốc nơ vít dài khoản 18cm, cán bằng nhựa màu đen và 01 cây kéo dài khoảng 25cm, tay cầm bằng nhựa màu xanh để trên tàu. T đi đến vị trí các Tăng - Phô (chấn lưu), tụ điện được gắn vào thân tàu gần buồng lái, dùng tuốc nơ vít vặn mở các ốc vít cố định và dùng kéo cắt các dây điện nối vào các Tăng - Phô, tụ điện, tháo rời rồi bỏ ra phía sau để H và M vận chuyển ra để ở vị trí ngoài khoang tàu. T, H và M đã lấy trộm được 08 Tăng - Phô (Chấn lưu) nhãn hiệu JLZ 1000L-5,5A, hình lập phương, màu trắng, kích thước (15x 14 x 12) cm, chưa qua sử dụng; 05 tụ điện nhãn hiệu Saier 35F, màu trắng, hình trụ tròn, chưa qua sử dụng. Ngoài ra, H lấy trộm 01 loa cầm tay màu đen trên giường ngủ ở buồng lái; M lấy trộm 01 đồng hồ đeo tay nam, có dây đeo bằng kim loại màu trắng, không rõ nhãn hiệu. T, H và M thả 08 Tăng - Phô và 05 tụ điện rơi xuống đất cạnh tàu cá, rồi cả nhóm rời khỏi tàu. Cả ba người đưa 08 Tăng - Phô, 01 loa xách tay và 01 đồng hồ đeo tay ra vị trí xe mô tô mà Ngọc A đang đứng đợi. Còn 05 tụ điện do không có giá trị nên đem vứt xuống bờ sông gần tàu cá. Sau đó, T điều khiển xe chở H ngồi sau giữ 04 Tăng - Phô và 01 loa xách tay; M điều khiển xe mang theo 01 đồng hồ đeo tay chở Ngọc A ngồi phía sau giữ 04 Tăng - Phô, chạy theo đường nội thị đưa tài sản lấy trộm được đến cất giấu tại quán sửa chữa điện tử của T ở thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Còn 01 đồng hồ đeo tay do M lấy trộm, khi đến thôn V, xã Q, M dừng xe lại lấy ra xem, thấy đồng hồ đã cũ nên M đã vứt lại bên đường.

Đến khoảng giữa tháng 11/2018, T và H đưa 07 Tăng - Phô lấy trộm được đến bán cho anh Nguyễn Văn S với giá 2.100.000 đồng, còn 01 Tăng - Phô bị hỏng nên T bán cho một người thu mua phế liệu (không rõ danh tính, địa chỉ). Loa xách tay T bán cho anh Trần Đức H với giá 200.000 đồng. Số tiền bán được từ tài sản trộm cắp, T, H, M và Ngọc A cùng nhau tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 04/HĐ ngày 27/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã B, kết luận: 08 Tăng - Phô (Chấn lưu) nhãn hiệu JLZ 1000L-5,5A, hình lập phương, màu trắng, kích thước (15x 14 x 12) cm, chưa qua sử dụng; 05 tụ điện nhãn hiệu Saier 35F, màu trắng, hình trụ tròn, chưa qua sử dụng; 01 loa cầm tay màu đen, nhãn hiệu JBZ, kích thước (25x22x30) cm, đã qua sử dụng; 01 đồng hồ đeo tay nam, có dây đeo bằng kim loại màu trắng, không rõ nhãn hiệu, đã qua sử dụng, có tổng giá trị tại thời điểm mất trộm là: 9.870.000 đồng.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho các chủ sở hữu: 04 Tăng -Phô (Chấn lưu) nhãn hiệu JLZ 1000L-5,5A, hình lập phương, màu trắng, kích thước (15x 14 x 12) cm; 01 loa cầm tay màu đen, nhãn hiệu JBZ, kích thước (25x22x30) cm; 01 xe mô tô nhãn hiệu JUPITER MAX, sơn màu đen - xám, biển kiểm soát 73N4 - 7062.

Đi với các vật chứng mà các bị cáo khai đã vứt bỏ, gồm: 01 tuốc nơ vít dài khoản 18cm, cán bằng nhựa màu đen và 01 cây kéo dài khoảng 25cm, tay cầm bằng nhựa màu xanh T dùng để tháo Tăng - Phô và Tụ điện; 05 tụ điện nhãn hiệu Saier 35F, màu trắng, hình trụ tròn; 01 đồng hồ đeo tay nam, có dây đeo bằng kim loại màu trắng. Ngày 20/3/2019 và ngày 21/3/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã B đã tiến hành truy tìm nhưng không có kết quả.

Quá trình điều tra Phạm Văn T, Trần Văn M, Trần Trung H và Mai Ngọc A đã thỏa thuận bồi thường cho những người bị hại số tiền 4.600.000 đồng (gồm chi phí mua các tài sản bị mất trộm không thu hồi lại được); H trả lại cho anh Nguyễn Văn S số tiền 1.200.000 đồng; hoàn trả lại cho anh Trần Đức H số tiền 200.000 đồng. Các bên đã nhận đủ tiền và cam kết không khiếu nại, khiếu kiện gì về mặt dân sự.

Liên quan trong vụ án còn có anh Nguyễn Văn S và anh Trần Đức H là những người đã mua tài sản do các bị cáo phạm tội mà có. Tuy nhiên, anh S, anh H không biết tài sản đó do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra chỉ giáo dục, nhắc nhở là hoàn toàn phù hợp.

Tại bản Cáo trạng số: 21/CT-VKSTXBĐ, ngày 22/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã B, tỉnh Quảng Bình truy tố các bị cáo Phạm Văn T, Trần Trung H, Trần Văn M, Mai Ngọc A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 09 đến 12 tháng tù; căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 90, Điều 91 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Trung H từ 06 đến 09 tháng tù; căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn M và Mai Ngọc A từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Trần Trung H nhất trí với tội danh và việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Viện kiểm sát đối với bị cáo H. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, nguyên nhân và vai trò của các bị cáo trong vụ án, thì mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề xuất đối với bị cáo H là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, tại thời điểm phạm tội, bị cáo chưa nhận thức đầy đủ, bản thân bị cáo nghỉ học sớm nên phần nào thiếu sự giáo dục của thầy cô, nhà trường, hoàn cảnh gia đình của bị cáo cũng hết sức khó khăn, trong bốn bị cáo thì bị cáo là người nhỏ tuổi nhất, việc bị cáo phạm tội là do bị rủ rê, lôi kéo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 17 của Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 01/2013/HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để cho bị cáo được hưởng dưới mức thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị.

Tại phiên toà người đại diện hợp pháp của bị cáo nhất trí với lời bào chữa của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo và không có ý kiến gì thêm.

Các bị cáo Phạm Văn T, Trần Văn M, Trần Trung H và Mai Ngọc A nhất trí với tội danh và khung hình phạt như bản Cáo trạng số: 21/CT-VKSTXBĐ, ngày 22/4/2019 và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người bào chữa cho bị cáo vị thành niên và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng cũng như các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 21 giờ, ngày 06/10/2018, các bị cáo T, H, M và Ngọc A đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của gia đình anh Nguyễn Hồng Q và chị Hoàng Thị P có tổng trị giá 9.870.000 đồng. Hành vi của các bị cáo có đầy đủ dấu hiệu của tội: “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, Quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã B cũng như lời lụân tội của Kiểm sát viên tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật. Chính các bị cáo cũng thừa nhận hành vi của mình đã phạm tội "Trộm cắp tài sản", chỉ yêu cầu xem xét giảm nhẹ hình phạt.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và vai trò của từng bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện tuy ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội đồng thời gây tâm lý hoang mang, lo lắng, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống bình yên của quần chúng nhân dân trên địa bàn. Các bị cáo là những thanh niên còn trẻ, có sức khỏe, có đầy đủ năng lực hành vi, đáng lẽ các bị cáo phải chịu khó lao động tạo ra thu nhập chính đáng để nuôi sống bản thân, nhưng chỉ vì đùa đòi, chơi bời lêu lỏng, thích hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác nên các bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý phạm tội. Vụ án có nhiều bị cáo tham gia thực hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên tính chất đồng phạm chỉ ở mức độ đơn giản, giữa các bị cáo không có sự bàn bạc kỹ lưỡng, cấu kết chặt chẽ hay phân công vai trò, vị trí cụ thể trước khi phạm tội mà chỉ mang tính bộ phát.

Trong số các bị cáo thì Phạm Văn T là người chủ động, khởi xướng các bị cáo H, M và Ngọc A thực hiện hành vi phạm tội, quá trình thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, T tỏ ra rất tích cực từ đầu đến cuối, từ việc đột nhập lên tàu tìm kiếm công cụ để lấy trộm tài sản cũng như tìm mối tiêu thụ và cất giữ tiền sau khi bán được tài sản trộm cắp. Hành vi phạm tội của bị cáo là hết sức liều lĩnh. Là một đối tượng đã nhiều lần bị Công an xã Q, thị xã B xử phạt vi phạm hành chính và hiện nay đang bị Công an thị xã B khởi tố về tội “Cướp giật tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó là bài học kinh nghiệm cho bản thân, để tu dưỡng rèn luyện đạo đức, chấp hành pháp luật mà đã cùng đồng bọn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Từ những điều này cho thấy bị cáo là đối tượng luôn có ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, cần buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án này với mức hình phạt nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật đối với bị cáo.

Đi với bị cáo Trần Trung H, khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi nhưng khi nghe bị cáo T khởi xướng việc trộm cắp tài sản bị cáo đã đồng ý ngay, quá trình thực hiện hành vi phạm tội cũng như khi tiêu thụ tài sản bị cáo đã tỏ ra tích cực. Mặt khác, ngày 29/9/2017 có hành vi gây rối trật tự công cộng bị Công an xã Q, thị xã B xử phạt vi phạm hành chính, hiện tại bị cáo cũng bị Công an thị xã B khởi tố về tội “Cướp giật tài sản”. Điều này thể hiện sự coi thương pháp luật của bị cáo. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm trong vụ án sau bị cáo T.

Đi với bị cáo Trần Văn Mcũng là người trực tiếp đột nhập lên tàu thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với T và H, còn bị cáo Mai Ngọc A mặc dù không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhưng bị cáo đã đứng ngoài để cảnh giới nên hai bị cáo cũng là đồng phạm trong vụ án, mặc dù đóng vai trò thứ yếu sau các bị cáo Toàn và H nhưng các bị cáo cũng có một vị trí, nhiệm vụ hết sức quan trọng để hoàn thành việc phạm tội. Đáng lẽ ra khi nghe T khởi xướng việc trộm cắp tài sản, các bị cáo cần từ chối hoặc can ngăn nhưng lại hưởng ứng, đồng ý cùng thực hiện, sẵn sàng phạm tội khi có điều kiện. Nên các bị cáo này cũng phải chịu trách nhiệm sau các bị cáo trên với mức hình phạt tương xứng với mức độ lỗi đã phạm.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội các bị cáo đã thỏa thuận bồi thường đầy đủ thiệt hại do mình gây ra cho người bị hại, quá trình điều tra người bị hại có đơn đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H. Các bị cáo M và Ngọc A phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo theo mức độ và điều kiện mà mỗi bị cáo được hưởng.

[5] Theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và hình phạt là phù hợp và tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

[6] Về hình phạt: Qua xem xét các vấn đề nêu trên thấy rằng hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, liều lĩnh cần phải được xét xử nghiêm đồng thời cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly các bị cáo Phạm Văn T và Trần Trung H ra ngoài xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, đối với Trần Trung H tại thời điểm phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, do đó mức độ nhận thức về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội còn hạn chế, vì vậy, khi quyết định hình phạt cần áp dụng nguyên tắc xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Điều 90 và khoản 6 Điều 91 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đối với bị cáo Trần Văn M và Mai Ngọc A có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt nên chưa cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội mà cần căn cứ vào Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được học tập cải tạo tại địa phương là cũng đủ nghiêm và phù hợp với chính sách nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, các bị cáo đã bồi thường đầy đủ thiệt hại theo yêu cầu của người bị hại, trong quá trình điều tra những người bị hại không có yêu cầu gì nên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thu giữ và trả lại đúng cho các chủ sở hữu, tại phiên toà hôm nay không ai có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Các bị cáo Phạm Văn T, Trần Trung H, Trần Văn M và Mai Ngọc A phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần Văn T, Trần Trung H, Trần Văn M và Mai Ngọc A phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn T 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 90, khoản 6 Điều 91 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Trung H 06 (sáu ) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn M 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Mai Ngọc A 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Văn M, Mai Ngọc A cho Uỷ ban nhân dân xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách của án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi chỗ ở thì áp dụng theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo 3. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét.

4. Về vật chứng vụ án: Đã giải quyết xong

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội khoá 14: Buộc các bị cáo Trần Văn T, Trần Trung H, Trần Văn M và Mai Ngọc A phải nộp mỗi bị cáo 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo vị thành niên, người bào chữa cho bị cáo vị thành niên được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (đối với người có mặt tại phiên toà) hoặc trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án (đối với người vắng mặt tại phiên toà)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về