Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 22/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 131/2019/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2019/QĐXX-ST ngày 12 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Phạm Văn D - Sinh năm 1986

Địa chỉ: Thôn C, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

2. Bị đơn: Chị Lê Thị L - Sinh năm 1993

Địa chỉ: Thôn C, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

Chổ ở: Thôn 2, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

Tại phiên toà vắng mặt anh D và chị L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 28/6/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Phạm Văn D trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Lê Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức và được UBND xã Hà Toại, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 02/9/2012. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 5/2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp về tính cách, cô L không hợp với điều kiện sống của gia đình anh nên nhiều lần về nhà bố mẹ đẻ ở. Từ tháng 5/2014 cô L bế con về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống, từ đó đến nay vợ chồng anh sống ly thân nhau và không còn quan tâm đến nhau. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, thời gian ly thân đã lâu nên anh xin được ly hôn với cô L.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Phạm Khánh D, sinh ngày 11/02/2014. Hiện nay cháu khỏe mạnh và đang ở với cô L. Tại đơn khởi kiện anh đề nghị nếu ly hôn anh được nuôi dưỡng con và không yêu cầu cô L cấp dưỡng nuôi con. Tại bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt anh D đề nghị ly hôn anh đề nghị được giao cháu D cho cô L trực tiếp nuôi dưỡng và anh không phải cấp dưỡng nuôi con cùng cô L.

- Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Sau khi Toà án thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã triệu tập chị L và đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng liên quan theo đúng quy định đối với chị Lê Thị L (gia đình chị L đã nhận giấy tờ và cam kết sẽ giao lại văn bản tố tụng cho chị L) nhưng chị L không đến làm việc nên không có lời khai để thể hiện nguyện vọng của chị L.

* Theo ông Lê Trí Th là bố đẻ của chị L cho biết: Anh D và chị L kết hôn năm 2012. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh chị không hợp nhau về tính cách. Đến đầu năm 2014 sau khi sinh con cháu L đã bế con về nhà bố mẹ đẻ ở cho đến nay, từ đó vợ chồng cháu sống ly thân không quan tâm đến nhau. Vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Khánh D, sinh năm 2014, hiện nay cháu đang ở với mẹ và gia đình ông. Cháu L vẫn sinh sống cùng gia đình ông, cháu đi làm ban ngày, thường xuyên về nhà, nên không lên Toà làm việc được, mọi văn bản giấy tờ giao cho gia đình và cháu đã nhận lại. Ông Th cho biết quan điểm của chị L là đồng ý ly hôn vì thời gian ly thân đã lâu không còn tình cảm và xin được nuôi con và không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con, về tài sản cháu không yêu cầu Tòa án giải quyết, do sáng đi làm tối muộn mới về nên cháu muốn xin xử vắng mặt. Ông cũng đồng ý nhận toàn bộ các văn bản giấy tờ và sẽ trực tiếp giao cho cháu L.

* Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã tiến hành xác minh tại xã Hà Toại, theo thông tin cung cấp thì được biết: Chị L và anh D là vợ chồng, anh chị sống với nhau hạnh phúc chỉ được thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn do không hợp tính cách và đã sống ly thân khoảng 3 năm nay, chị L đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng có 01 con chung là D hiện nay chị L đưa cháu về xã Hà Vinh sinh sống, thỉnh thoảng vẫn đưa cháu về nhà nội chơi, cháu vẫn khỏe mạnh bình thường. Anh D hiện làm nghề đánh bắt cá trên sông nên mức thu nhập không ổn định và vẫn sống chung với gia đình.

* Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã tiến hành xác minh tại xã Hà Vinh, theo thông tin cung cấp thì được biết: Chị L và anh D là vợ chồng, sau khi lấy chồng chị L đã chuyển khẩu về gia đình chồng ở xã Hà Toại, huyện Hà Trung từ đầu năm 2013. Từ đầu năm 2014 chị L bế con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống ở xã Hà Vinh, chị L hiện làm công nhân cứ sáng đi tối về thu nhập của chị cũng đủ cho mẹ con sinh sống, sinh sống tại địa phương chị L không vi phạm pháp luật.

Do anh D có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Tại phiên Toà, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của anh D, xử cho ly hôn giữa anh D và chị L, về con chung giao cháu Phạm Khánh D cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh D không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L.

Tại phiên tòa hôm nay anh D giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là chị Lê Thị L không có mặt tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên tòa cũng được hoãn lần thứ nhất. Anh D có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh D và chị L.

[2] Về hôn nhân: Anh Phạm Văn D và chị Lê Thị L kết hôn năm 2012 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp.Theo anh D vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và từ tháng 5/2014 đến nay vợ chồng anh sống ly thân nhau không còn quan tâm đến nhau.

Đi với chị Lê Thị L dù biết anh D có đơn xin ly hôn, chị L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản nhưng chị L vắng mặt tại Tòa án và không có ý kiến trình bày quan điểm, nguyện vọng của mình về tình trạng hôn nhân, chứng tỏ chị L không còn thiết tha níu kéo tình cảm vợ chồng. Ngoài ra theo ông Thống là bố đẻ chị L cho biết vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2014 cho đến nay, nguyện vọng của chị L cũng xin được ly hôn với anh D.

Xét thấy, nguyện vọng xin được ly hôn của anh D là có cơ sở, mâu thuẫn vợ chồng của anh chị đã trầm trọng, anh chị đã có thời gian dài sống ly thân và không ai quan tâm đến ai. Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây anh D đã thực sự không còn tình cảm với chị L và chị L bỏ mặc việc giải quyết vụ án không thiết tha níu kéo tình cảm vợ chồng. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh D và căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh D được ly hôn chị L là phù hợp.

[3] Về con: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Phạm Khánh D, sinh ngày 11/02/2014. Ly hôn anh D đề nghị được giao con cho chị L nuôi dưỡng. Anh D đã xuất trình trích lục giấy khai sinh của cháu D và có ghi tên mẹ là Lê Thị L và bố là Phạm Văn D. Như vậy đủ cơ sở khẳng định cháu D là con chung của chị L và anh D.

Xét thấy nguyện vọng của anh giao con cho chị L nuôi là hoàn toàn chính đáng. Bởi từ khi ly thân đến nay chị L trực tiếp nuôi cháu và cháu khỏe mạnh phát triển bình thường. Nên không cần làm xáo trộn cuộc sống của cháu và cháu còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ sẽ tốt hơn và theo ông Th chị L cũng xin được trực tiếp nuôi con. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HNGĐ giao cháu D cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh D đề nghị không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị L. Xét thấy hiện nay anh làm nghề đánh bắt cá trên sông nên không có thu nhập ổn định. Theo ông Thống chị L đang làm công nhân thu nhập ổn định và nguyện vọng của chị cũng không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con. Nên Hội đồng xét xử không buộc anh D phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị L.

[3] Về tài sản: Anh D không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Anh Phạm Văn D là nguyên đơn trong vụ án nên buộc anh D phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Phạm Văn D và chị Lê Thị L.

2. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 01 con chung là: Phạm Khánh D - Sinh ngày 11 tháng 02 năm 2014.

2.1. Giao con chung Phạm Khánh D cho chị Lê Thị L trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Phạm Văn D không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L.

2.3. Anh D có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Anh Phạm Văn D phải chịu 300.000đ tin án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0000473 ngày 04/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Anh D đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Anh D và chị L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:22/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về