Bản án 22/2018/HS-ST ngày 26/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 26/04/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai, theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số: 19/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh năm 1994 tại thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: HN, xã AH, huyện AD, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới t nh: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và con bà Trần Thị T; chưa có vợ con; tiền án: Bản án số .../2017/HSST ngày ...-...-2017 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản; tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 23-03-2018, tạm giam từ ngày 27-03-2018. Có mặt.

- Bị hại: Anh Ngô Văn T1, sinh năm 1979, trú tại: Phường QT, quận HB, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Đỗ Văn N, anh Nguyễn Tr  D, đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 20 phút ngày 23 tháng 3 năm 2018, Lê Văn T cùng Nguyễn Văn T2 rời nhà anh Nguyễn Thanh T3, đi đến chỗ xe mô tô để trên vỉa hè ph a trước nhà anh T3 tại khu tập thể A7 + A8 phường Quán Toan, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. T, T2 nhìn thấy có hai con chó. T2 bảo T: “Chó kìa, bắt bắt”. T lại gần, bế một con chó, rồi quay lại chỗ xe mô tô. Lúc này, anh Ngô Văn T1 là chủ của hai con chó nhìn thấy, hô hoán. T bỏ chạy nhưng bị quần chúng nhân dân, trong đó có ông Đỗ Văn N, anh Nguyễn Tr  D bắt giữ và đưa T về trụ sở Công an phường Quán Toan lập biên bản.

Theo Kết luận định giá tài sản ngày 27-3-2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hồng Bàng kết luận: Một con chó kiểu dòng chó Poodle cao 22 cm, dài 40 cm, nặng 4 kg trị giá 4.000.000 đồng.

- Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/CT-VKS ngày 09-4-2018, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng truy tố Lê Văn T về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

- Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp nội dung bản Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thừa nhận việc truy tố, xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội danh. Bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn. Đề nghị Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử: Lê Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt 09 tháng tù tại Bản án số .../2017/HSST ngày ...-...-2017 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, nên buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 24 tháng tù đến 27 tháng tù. Không áp dụng hình phạt tiền và trả lại bị cáo 01 điện thoại Nokia màu đỏ đen, 01 v  da màu đen và số tiền 3.540.000 đồng. Buộc bị cáo phải chịu án ph hình sự sơ thẩm. Đối với Nguyễn Văn T2 hiện đang vắng mặt tại địa phương hiện đang được Cơ quan điều tra tách ra làm rõ, xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nhận định các tình tiết của vụ án:

[2] Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, vật chứng, Kết luận định giá tài sản, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 23 giờ 20 phút ngày 23 tháng 3 năm 2018, tại khu tập thể A7 + A8 phường Quán Toan, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, bị cáo T có hành vi lén lút, chiếm đoạt tài sản là một con chó trị giá 4.000.000 đồng của anh Ngô Văn T1. Do vậy, Lê Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo T không phạm các tình tiết định khung hình phạt nào khác khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, nên đã phạm khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự theo truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng là đúng pháp luật.

[4] Tisnh chất vụ án tuy ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác trong thời gian thử thách về tội Trộm cắp tài sản, gây mất trật tự trị an của địa phương. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm minh để răn đe, trừng trị đối với bị cáo, qua đó nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm này.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà và trong quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 của Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt chính: Trên cơ sở đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo tái phạm tội Trộm cắp tài sản trong thời gian thử thách của án treo, nên cần đánh giá có nhân thân xấu và không đảm bảo tác dụng, hiệu quả mục đích hình phạt của bản án hình sự trước. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tù th ch hợp mới đảm bảo nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục bị cáo trở thành người có  ch cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Căn cứ Điều 56 của Bộ luật Hình sự, Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng phải tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của Bản án số .../2017/HSST ngày ...-...-2017 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng với bản án xét xử hành vi phạm tội trong vụ án này, nhưng trừ cho bị cáo thời gian tạm giữ, tạm giam của bản án trước và lần này.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập, nghề nghiệp ổn định, nên không cần thiết phạt tiền như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là có cơ sở.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại được nhận lại tài sản, không yêu cầu gì về dân sự, nên không xem xét, giải quyết.

[10] Về xử lý vật chứng: Tài sản của bị cáo bị tạm giữ gồm 01 điện thoại Nokia màu đỏ đen, 01 da màu đen và số tiền 3.540.000 đồng, không liên quan đến hành vi phạm tội. Do vậy, cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ số tiền 3.540.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

[11] Do chưa làm rõ đối với đối tượng tên là Nguyễn Văn T2 vì lý do vắng mặt tại nơi cư trú, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa đủ căn cứ xử lý. Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng tiếp tục điều tra, làm rõ đối tượng này tránh bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án ph hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Lê Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 56 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Lê Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Tổng hợp với 09 (ch n) tháng tù của Bản án số .../2017/HSST ngày ...-...-2017 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, nên Lê Văn T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù t nh từ ngày 23-3-2018, nhưng trừ cho bị cáo thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25-12-2016 đến ngày 21-02-2017 tại Bản án số .../2017/HSST ngày ...-...-2017 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự,

Trả lại cho Lê Văn T 01 (một) điện thoại Nokia màu đỏ đen, 01 (một) ví da màu đen và số tiền 3.540.000 (ba triệu, năm trăm bốn mươi nghìn) đồng, tuy nhiên giữ lại số tiền 3.540.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10-4-2018 và Biên lai thu tiền số 7261 ngày 10-4-2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng).

3. Về án ph : Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2015/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án ph  và lệ ph  Toà án, Lê Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án ph hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 26/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về