Bản án 22/2018/HSST ngày 26/04/2018 về tội dâm ô đối với trẻ em

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 22/2018/HSST NGÀY 26/04/2018 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI TRẺ EM

Ngày 26 tháng 4 năm 2018. Tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xét xử sở thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 10/2018/HSST, ngày 09 tháng 3 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2018/HSST-QĐ, ngày 12/4/2018, đối với bị cáo:

1. Phạm Sỹ K, sinh năm 1983

Nơi cư trú: Xóm BN, xã TG, huyện TC, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông: Phạm Sỹ M ( chết) và bà Bùi Thị H; có vợ: Trần Thị D; con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh 2013; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên toà.

2. Người bị hại: Chị; Võ Thị CN, sinh ngày 11/3/1999. Vắng mặt

Địa chỉ: Xóm BN, xã TG, huyện TC, tỉnh Nghệ An.

3. Người làm chứng:

- Anh; Võ Đình Đ, sinh năm 1975. Vắng mặt

Địa chỉ: Xóm BN, xã TG, huyện TC, tỉnh Nghệ An

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm như sau: Phạm Sỹ K và cháu Võ Thị CN, sinh ngày 11/3/1999 là con gái  Đình Đ, sinh năm 1974, trú tại xóm BN, xã TG, huyện TC quen biết nhau từ trước. Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 11/8/2014, K đi từ nhà mình đến nhà anh Đ. Khi đến nơi K dùng điện thoại nhắn tin cho cháu Võ Thị CN, với nội dung “ ra anh gặp tý được không ?”, cháu N trả lời “ không ra ”, sau đó K cứ nhắn tin nói cháu N ra nên cháu N ra. Khi cháu N ra gặp K thì K nói “ Lên xe anh đi nói chuyện ”, nghe K nói vậy, cháu N lên xe rồi cùng K ra cánh đồng thuộc xóm BN, xã TG, huyện TC. Lúc này K nói với cháu N “ Mai anh đi rồi, anh muốn ”. Nghe vậy, cháu N tự cởi quần áo của mình ra và K cũng cởi quần áo mình ra. Hai người ngồi trên xe hôn nhau rồi K dùng tay phải sờ vào bụng rồi sờ vào âm hộ của cháu N. Được một lúc, thì anh Đ đi ra phát hiện K và con gái đang hôn nhau, nên cháu N hoảng sợ lấy quần áo mặc vào rồi bỏ chạy. K và anh Đ giằng co nhau một lúc rồi anh Đ lấy quần áo của K vứt xuống ruộng gần đó rồi đi về nhà. Sau đó, K với cháu N rời khỏi hiện trường. Ngày 03/9/2014, anh Võ Đình Đ có đơn đề nghị khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi của Phạm Sỹ K.

Tại Kết luận giám định số 27/GĐPY ngày 09/9/2014 của Trung tâm pháp y tỉnh Nghệ An kết luận: “ Qua thăm khám toàn thân không có vết xây xước da, âm hộ, âm đạo bình thường. Lỗ màng trình giãn rộn, có điểm rách cũ ở vị trí 6 giờ, 9 giờ vết rách sâu tới tận chân màng trinh. Rách màng trinh không gây tổn hại sức khỏe ”.

Tại bản Cáo trạng số 12 ngày 09/3/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương đã truy tố Phạm Sỹ K về tội “ Dâm ô đối với trẻ em ” theo khoản 1 Điều 116 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 116; điểm h, p khoản 1, 2 Điều 46; 60 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Phạm Sỹ K từ 12 – 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 – 30 tháng. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Chương, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định, cũng như các chứng cứ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng, các chứng cứ đã thu thập của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phạm Sỹ K, đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo Phạm Sỹ K phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai người làm chứng; phù hợp với kết luận giám định pháp y về tình dục. Xét về chứng cứ đã có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 00 giờ 30 phút, ngày 11/8/2014 tại cánh đồng thuộc xóm BN, xã TG, huyện TC, tỉnh Nghệ An, Phạm Sỹ K đã có hành vi cởi quần áo của mình, ôm hôn và dùng tay phải sờ vào âm hộ chị Võ Thị Cẩm N, sinh ngày 11/3/1999, lúc đó chị Võ Thị Cẩm N, mới 15 tuổi, 05 tháng.

Như vậy đã có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Phạm Sỹ K, phạm tội "Dâm ô đối với trẻ em ”, như Viện kiểm sát truy tố là đúng.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm, ảnh hưởng đến an ninh trật xã hôị; hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của cá nhân, thuần phong mỹ tục của xã hội, bị cáo là người lớn tuổi và đã có gia đình, đáng lẽ ra bị cáo cần có hành vi xử sự đúng mực đối với các cháu nhỏ, song bị cáo lại có hành vi dâm ô. Cho nên cần xét xử thật nghiêm, mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng; Sau khi phạm tội bỏ trốn, bị cáo đã ra đầu thú; bố mẹ bị cáo là người có công với cách mạng, đã được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì; ông nội bị cáo là Bệnh bình, gia đình người bị hại xin bãi nại cho bị cáo. Cho nên cũng cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo, để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm và có nới cư trú rõ ràng. Xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội, mà cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng đủ giáo dục bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu gì, nên Tòa án không xem xét.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 116; điểm h, p khoản 1, 2 Điều 46; 60 Bộ luật hình sự năm 1999. Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Sỹ K, phạm tội “ Dâm ô đối với trẻ em ”.

2. Xử phạt bị cáo: Phạm Sỹ K, 10 ( Mười ) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 ( hai mươi ) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Sỹ Khoa cho UBND xã TG, huyện TC, tỉnh Nghệ An, giám sát và giáo dục trung thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Sỹ K, phải chịu: 200.000 đồng ( Hai trăm ngàn ), án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật ( đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án ) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại vắng mặt, có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

671
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HSST ngày 26/04/2018 về tội dâm ô đối với trẻ em

Số hiệu:22/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về