Bản án 22/2018/HS-ST ngày 25/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 25/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 05 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2018/TLST - HS ngày 11 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2018/QĐXXST - HS ngày 14 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

NGUYỄN QUANG S, sinh năm : 1994. HKTT: Đ, TT Q, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao Động tự do; trình Đ văn hóa (học vấn): Lớp 12/12. Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Quang H và bà Nguyễn Thị L .

Chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06 tháng 02 năm 2018 cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 15 Pt ngày 06/02/2018, tại địa phận thôn TD, xã TT, huyện C, tỉnh Bắc Ninh, tổ công tác Công an huyện C phối hợp với Công an xã TT, phát hiện Nguyễn Quang S, sinh năm 1994, HKTT: Thôn Đ, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh, có biểu hiện nghi vấn hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra đối với S. Do sợ nên S đã vứt xuống đất gần vị trí S đứng 01 túi ni lông màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng và 02 viên nén màu hồng hình tròn trên một mặt của mỗi viên có ký hiệu WY. S khai nhận túi ni lông S vừa vứt xuống đất là ma túy S vừa mua được để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ và niêm phong 01 túi ni lông trên của S gửi trưng cầu giám định. Ngoài ra còn thu giữ của S 01 điện thoại di Động Nokia 3310 màu trắng xám đã qua sử dụng; 01 chiếc ví màu đen đã qua sử dụng, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quang S và số tiền 10.000đ.

Tại bản kết luận giám định số: 275/KLGĐMT-PC54 ngày 06/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,1120 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Chất Methamphetamine; 02 viên nén màu hồng hình tròn có khối lượng 0,1877 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Chất Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện C, Nguyễn Quang S khai nhận: Do nghiện chất ma túy nên khoảng 12 giờ ngày 06/02/2018, Nguyễn Quang S cùng đối tượng tên là B (con ông P ở thôn Đ, thị trấn T, huyện C) rủ nhau đi mua ma túy về cùng sử dụng. Sau đó B điều khiển xe máy của B chở S (S không nhớ BKS xe của B), đi đến khu vực xã TT, huyện C để mua ma túy. Khi đi qua chợ thị trấn T khoảng hơn 1km, B dừng xe đứng đợi bên ngoài còn S đi vào một ngôi nhà ven đường có cửa xếp đóng kín. S đưa 300.000đ qua khe cửa bên dưới rồi có người trong nhà đưa cho S 01 túi nilon nhỏ bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng và 02 viên nén màu hồng hình tròn. S cầm túi ma túy vừa mua được ở lòng bàn tay phải rồi đi bộ ra đường thì bị tổ công tác Công an huyện C phối hợp với Công an xã TT kiểm tra bắt quả tang.

Tại bản cáo trạng số: 22/Ctr - VKS - LT ngày 09 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố Nguyễn Quang S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý";

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Quang S từ 12 đến 17 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy là mẫu vật còn lại sau giám định.

Đối với chiếc điện thoại di Động Nokia 3310 màu trắng xám, số tiền 10.000 đồng, 01 ví da màu đen đã qua sử dụng và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quang S thu giữ của S. Qua điều tra xác định những vật chứng trên không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của S nên cần trả lại cho bị cáo. Nhưng cần tạm giữ lại điện thoại và số tiền để đảm bảo thi hành án.

Sau khi nghe bản luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát bị cáo không có ý kiến tham gia tranh luận và không có lời bào chữa, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của người làm chứng, tang vật thu giữ được, các kết luận giám định, và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thu thập đúng trình tự, quy định của pháp luật. Do vậy, đủ cơ sở để kết luận khoảng 12 giờ 15 Pt ngày 06/02/2018, tại địa phận thôn TD, xã TT, huyện C, tỉnh Bắc Ninh, tổ công tác Công an huyện C phối hợp với Công an xã TT, bắt quả tang Nguyễn Quang S đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,2997 gam Methamphetamine trên người, với mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, đó là chế Đ Đc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Hành vi của bị cáo không những gây hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân mà còn là nguyên nhân phát sinh ra các loại tội phạm khác.

Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Tuy bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào nhưng bản thân bị cáo bị nghiện ma túy nên cần thiết phải có hình phạt nghiêm cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung, Hơn nữa cũng giúp cho bị cáo có thời gian cai nghiện ma túy để trở thành người có ích cho xã hội.

Song trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai báo thành khẩn và tỏ thái Đ ăn năn hối cải, hơn nữa bị cáo đã có thời gian tham gia quân ngũ và đã hoàn thành nhiệm vụ trở về địa phương; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xét thấy chỉ cần xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt cũng giúp răn đe, giáo dục đối với bị cáo là phù hợp.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có cơ sở nên cần chấp nhận.

Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính thì không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

Về vật chứng của vụ án: Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại di Động Nokia 3310 màu trắng xám, số tiền 10.000 đồng, 01 ví da màu đen đã qua sử dụng và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quang S mà cơ quan điều tra đã thu giữ của S Qua điều tra xác định những vật chứng trên không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên cần trả lại cho bị cáo. Nhưng cần tạm giữ lại số tiền và chiếc điện thoại để đảm bảo thi hành án.

Đối với Đỗ Văn Đ, sinh năm: 2000 ở thôn Đ, thị trấn T, huyện C theo S khai tên là B, con ông P nhà ở Thị trấn T, huyện C đối diện “Thế giới di Động” là đối tượng đã đưa tiền cho S để S đi mua ma túy. Khi Đ đưa tiền cho S thì không ai biết. Cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập Đ nhưng Đ không đến làm việc. Qua xác minh được biết hiện tại Đ không có mặt tại địa phương nên chưa có đủ căn cứ để xem xét xử lý đối với Đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vì vậy cơ quan điều tra sẽ tách hành vi của Đ để xem xét xử lý sau, đồng thời tiếp tục triệu tập Đỗ Văn Đ để làm việc và thu thập các tài liệu chứng cứ khi nào có đủ căn cứ sẽ xem xét, xử lý. Do vậy HĐXX không đặt ra xem xét.

Đối với người đã bán ma túy cho S, quá trình điều tra cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh chủ sở hữu của ngôi nhà mà S đã mua ma túy vào ngày 06/02/2018 và được biết ngôi nhà trên là của bà Hà Thị Thắm ở thôn TD, xã TT, hiện gia đình bà Thắm đang làm ăn ở Miền Nam, không có mặt tại địa phương khoảng 01 năm nay. Chính quyền địa phương xác định không có ai sinh sống trong ngôi nhà này. Vì vậy không có căn cứ xem xét đối với đối tượng đã bán ma túy cho S là đúng pháp luật.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma  tuý".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang S 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/02/2018 là ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo.

Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tạm giam bị cáo Nguyễn Quang S 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định gồm: Vỏ đựng mẫu vật và 0,0426 gam các hạt tinh thể màu trắng cùng cùng 0,0918 gam viên nén màu hồng (mẫu vật còn lại sau giám định) được niêm phong trong phong bì thư có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh.

Trả lại Nguyễn Quang S 01 điện thoại di Động Nokia 3310 màu trắng xám, đã qua sử dụng và số tiền 10.000đ, 01 ví da màu đen đã qua sử dụng và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quang S. Nhưng tạm giữ lại số tiền 10.000đ và chiếc điện thoại để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ vật chứng nêu trên được mô tả theo đúng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/5/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C.

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14: Bị cáo Nguyễn Quang S phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 25/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về