Bản án 22/2018/HS-ST ngày 21/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 21/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 21 tháng 3 năm 2018, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai  vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2018/TLST- HS ngày 12 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2018/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Mạnh H, sinh ngày 27 tháng 01 năm 1983 tại thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: tổ 3, khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; con ông Vũ Văn H và bà Vũ Thị L(Đã chết); Vợ: Trần Thị Hồng Y; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ ngày 10-01-2018; tạm giam ngày 16-01-2018 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Hữu O, sinh năm 1933, địa chỉ: Tổ 29A, khu X, phường Q, TP. U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1962, địa chỉ: Tổ 15, khu V, phường Q Trung, TP. U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 10-01-2018, tổ công tác Công an phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh trong khi làm nhiệm vụ tại tổ 29A, khu X, phường Q, thành phố U tiến hành kiểm tra quán Internet của anh Nguyễn Quang A (trú tại tổ 2, khu N, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh) phát hiện Vũ Mạnh H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của H đang mặc 02 (hai) túi nilon màu trắng, kích thước 1,5x1,5cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng.

Tại bản Kết luận giám định số 109 ngày 11-01-2018 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 02 túi nilon thu tại túi quần phía trước bên phải của H là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng là 0,675gam (Không phẩy sáu trăm bảy mươi lăm gam).

Quá trình điều tra, bị can Vũ Mạnh H khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 09-01-2018, H đang ở nhà vợ tại tổ 29C, khu X, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh thì nảy sinh ý định mua ma túy “đá” về sử dụng. H gọi điện thoại cho đối tượng tên M (H không biết rõ họ tên, năm sinh của M) nhà ở phường P, thành phố U hỏi mua 500.000đ  (Năm trăm ngàn đồng) ma túy “đá”, M đồng ý và hẹn ra ngã ba hồ Yên Trung, phường P, thành phố U. Hcầm 600.000đ  (Sáu trăm ngàn đồng) rồi đi xe ôm của một người không quen biết chở ra điểm hẹn. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi cách ngã ba hồ Yên Trung khoảng 50 mét, H bảo người xe ôm đợi rồi xuống xe đi bộ đến điểm hẹn. Đến nơi, H thấy M đang đứng đợi, M đưa cho H 02 túi nilon màu trắng kích thước 1,5x1,5 cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. H xác định đó là ma túy “đá” nên cất vào túi quần phía trước bên phải và đưa cho M 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng). M nhận tiền rồi điều khiển xe mô tô bỏ đi. H đi xe ôm về quán Internet ở khu đối diện cổng phụ chợ Trung tâm phường Q, thành phố U. H trả tiền cho người lái xe ôm rồi ngồi chơi điện tử ở quán. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 10-01-2018 thì bị lực lượng công an phường Q kiểm tra, phát hiện H cất giữ trái phép chất ma túy “đá” mà H mua của M từ trưa ngày 09-01-2018. Mục đích H mua ma túy “đá” để sử dụng cho bản thân.

Tại Cáo trạng số 32/CT - VKSUB - QN ngày 09-02-2018, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U đã truy tố Vũ Mạnh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đúng như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U giữ nguyên quyết định truy tố đối với Vũ Mạnh H theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Vũ Mạnh H với mức hình phạt từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10-01-2018; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng, áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; khoản 1 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị HĐXX:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 109/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định được niêm phong bên trong chứa 0,52gam ma túy, loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định. Tại lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về việc định tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người làm chứng và nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 10/01/2018, tại quán Internet ở tổ 29A, khu X, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Vũ Mạnh H có hành vi tàng trữ trái phép 0,675gam loại ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng, thì bị Công an phường Q, thành phố Uphát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Xét về nhân thân, bị cáo là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp nghiêm trọng; hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Về hình phạt: Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội này là từ một năm đến năm năm tù. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo cai nghiện, sửa chữa lỗi lầm của bản thân.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 500.000.000đ  (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Vật chứng trong vụ án là 01 phong bì số 109/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định được niêm phong bên trong chứa 0,52gam ma túy, loại Methamphetamine thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố U, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định  của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Từ nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Vũ Mạnh H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt Vũ Mạnh H 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ: Ngày 10-01-2018.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: Điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

+Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì số 109/GĐMT của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định được niêm phong, bên trong chứa 0,52gam ma túy, loại Methamphetamine.

(Tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12 tháng 02 năm 2018 giữa Công an thành phố U và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố U, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 3, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23, Danh mục án phí, lệ phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Vũ Mạnh H phải nộp 200.000đ  (Hai trăm ngàn đồng) vào ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 21 tháng  3 năm 2018./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 21/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về