Bản án 22/2018/HS-ST ngày 05/02/2018 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH NG TÀU, TNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 05/02/2018 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 05 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2018/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2018, đôi vơi bi cáo:

Phạm Thị H (tên gọi khác: Hiền), sinh năm 1976 tại Hải Phòng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 460/2 đường T, phường B, thành phố K, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nơi ở khi bị bắt: 121đường B, phường H, thành phố K, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn N và bà Vũ Thị H; chồng là Dương Hữu K(đã ly hôn) và có 02 con sinh năm 2004 và 2007; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị bắt, tạm giam ngày 28 tháng 12 năm 2017, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp.Vũng Tàu. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Quang K, sinh năm 1989; địa chỉ: 05 đường N, phường H, thành phố K, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Vắng mặt – Có đơn xin vắng mặt)

2. Anh Lê Xuân V, sinh năm 1990; địa chỉ: 13 đường H, phường H, thành phố K, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Vắng mặt – Có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19giờ 00phút ngày 28/12/2017, chị Nguyễn Thị Thùy T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Attila biển số 72L7-1414 đến trụ sở Công an phường 12, thành phố Vũng Tàu đón bạn tên là S đang làm việc tại đây về nhà. Khi chị T đi ra nhà để xe của Công an phường 12 để lấy xe mô tô về nhà thì thấy xe của chị đã bị khóa bánh trước. Lúc này, bị cáo Phạm Thị H đi vào Công an phường 12 chửi chị T về việc chị T nợ bị cáo H số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) nhưng không trả tiền lời, tiền gốc và tắt điện thoại. Bị cáo H dùng tay đấm 01 cái vào mặt chị T rồi mở khóa trước của xe mô tô và nói chị T dắt xe mô tô ra quán bánh xèo ở cạnh Công an phường 12 nói chuyện. Tại đây, bị cáo H với chị T thỏa thuận “ chị T giao xe mô tô của chị cho H và trong vòng 30 ngày chị T phải trả lại tiền cho H thì chị T lấy lại xe mô tô”. Lúc này, anh Đặng Quang T (là bạn của H) điều khiển xe mô tô hiệu Honda Supper Cup biển số 71FC-0115 đến. Sau khi thỏa thuận với chị T xong, bị cáo H đem xe mô tô biển số 71FC-0115 của anh T vào trụ sở Công an phường 12 gửi để anh T đi cùng với bị cáo H. Do Lực lượng Công an phường 12 nhìn thấy bị cáo H đánh T và biết được sự việc chị T nợ tiền bị cáo H, nên nghi ngờ có vụ việc cưỡng đoạt tài sản xảy ra. Đồng chí Nguyễn Quang K, đồng chí Lê Xuân V là trực ban tại Công an phường 12 tiến hành kiểm tra giấy tờ xe của chiếc xe bị cáo H thì bị cáo H không chấp hành. Thấy vậy, đồng chí K đi ra ngoài cổng Công an phường 12 nói chị Tdắt xe mô tô hiệu Yamaha Attila biển số 72L7-1414 vào trong Công an phường 12 để làm việc thì bị cáo H chạy ra phía cổng ngăn cản, chửi bới và dùng tay đánh vào mặt của đồng chí K 01 cái, đồng chí V thấy ồn ào ngoài cổng nên chạy ra thì bị cáo H cầm 01 chiếc giày lười trên tay đánh 01 cái vào mặt của đồng chí V. Lúc này Lực lượng Công an phường 12 đến hỗ trợ đồng chí V, đồng chí K đưa bị cáo Hương về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 16/QĐ-VKS ngày 25-01-2018, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Phạm Thị H về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Phạm Thị H đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Phạm Thị H, về tội “Chống người thi hành công vụ” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm i s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 03 đến 06 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị H đã khai nhận toan bô hanh vi pham tôi cua minh . Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ , tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp , Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xac đinh: Khoảng 19 giờ 00phút ngày 28-12-2017, tại trước cổng Công an phường 12, thành phố Vũng Tàu đồng chí Nguyễn Quang K và đồng chí Lê Xuân V đang trực ban tại Công an phường 12 nghi ngờ có vụ việc cưỡng đoạt tài sản xảy ra nên đã tiến hành kiểm tra giấy tờ xe của chiếc xe của bị cáo Phạm Thị H thì bị cáo Hkhông chấp hành. Đồng chí Kyêu cầu dắt xe mô tô hiệu Yamaha Attila biển số 72L7-1414 vào trong Công an phường 12 để làm việc thì bị cáo H ngăn cản, chửi bới và dùng tay đánh vào mặt của đồng chí K 01 cái, sau đó cầm 01 chiếc giày lười trên tay đánh 01 cái vào mặt của đồng chí V. Lúc này lực lượng Công an phường 12 đến hỗ trợ đồng chí V và đồng chí K đưa bị cáo H về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Hành vi bị cáo Phạm Thị H đã thực hiện nêu trên đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu truy tố bị cáo về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi của bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiêm cho xã hội ; đã trực tiếp xâm hại đến trật tự quản lý hành chính; ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương và xã hội. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung về tội phạm xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo cho tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đã ly hôn chồng, phải nuôi 02 con nhỏ, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu nên không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 đôi giày lười vì có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của bị cáo nhưng không còn giá trị sử dụng theo quy định tại Điêu 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điêu 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bô: Bị cáo Phạm Thị H phạm tôi “Chống người thi hành công vụ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm i s khoản 1 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị H (tên gọi khác: Hiền) 04 (Bốn) tháng tù, thơi han tu đươc tinh tư ngày 28 tháng 12 năm 2017.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điêu 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điêu 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 đôi giày lười.

Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 61/BB.THA ngày 22 tháng 01 năm 2018.

4. Về án phi: Bị cáo Phạm Thị H phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đông) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo : Bị cáo đươc quyền kháng cáo bản án trong thơi hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phuc thâm . Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt thời hạn 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 05/02/2018 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về