Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 05/02/2018 về tranh chấp ly hôn

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 22/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 05 tháng 02 năm 2018, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyệnBình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số862/2017/TLST-HNGĐ ngày 27-7-2017 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 488/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 14-12-2017 vàQuyết định hoãn phiên tòa số 10/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09-01-2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thu H, sinh năm: 1984

Địa chỉ: A13/7 ấp 1, xã Q, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh. (chị H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Cao Nguyễn Nhất L, sinh năm: 1985

Địa chỉ: B8/235 ấp 2, xã Đ, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh. (Anh Lvắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 13-7-2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - Nguyên đơn chị Phạm Thị Thu H trình bày:

Chị và anh Cao Nguyễn Nhất L bắt đầu chung sống từ năm 2010, do tự tìm hiểu, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đa Phước, huyện Bình Chánh vào ngày 04-11-2010. Thời gian đầu chị và anh L chung sống cũng bình thường, đến khoảng đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp, anh L không có sự tôn trọng đối với chị, hay nhậu say rồi chửi đuổi chị đi. Khi đó chị về nhà mẹ ruột ngủ một đêm thì anh L đã không cho chị về nhà nữa, còn có những lời lẽ xúc phạm đối với chị. Do đó, từ tháng 6 năm 2017 cho đến nay chị và anh L sống ly thân. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng khó hàn gắn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với ông L.

Về con chung, chị và anh L có hai con chung tên Cao Thiên P1, sinh ngày17-01-2011 và Cao Thiên P2, sinh ngày 23-12-2013. Trước đây chị yêu cầu được nuôi hai con chung khi ly hôn nhưng nay chị thấy anh L vẫn đảm bảo điều kiện phát triển thể chất, khả năng nuôi hai trẻ P1 và trẻ P2 nên chị nghĩ để tránh việc căng thẳng giữa chị và anh L sau này cũng như để đảm bảo ổn định cuộc sống, tâm lý của hai con nên chị giao hai con chung cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng. Chị xin tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị không đưa ra mức cấp dưỡng cụ thể, chị sẽ lo cho các con theo khả năng của mình.

Về tài sản chung, chị xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, chị xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, thông qua Văn phòng thừa phát lại huyện Bình Chánh, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nhưng anh Cao Nguyễn Nhất L vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án và cũng không thể hiện ý kiến của mình bằng bấtcứ văn bản nào.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày, tranh luận của các bên đương sự thì xét thấy thời hạn chuẩn bị xét xử chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, cần tiếp tục giao con chung cho bị đơn nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

 [2] Nguyên đơn chị Phạm Thị Thu H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Cao Nguyễn Nhất L. Theo kết quả trả lời xác minh của Công an xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh thì anh L hiện đang cư ngụ tại địa chỉ B8/235 ấp 2, xã Đ,huyện Bình Chánh. Như vậy, anh L có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

 [3] Về sự vắng mặt của các đương sự: Do nguyên đơn chị Phạm Thị Thu H có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về sự vắng mặt của bị đơn, thông qua Văn phòng thừa phát lại huyện Bình Chánh, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cho anh L nhưng anh L vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh L theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [4] Về hôn nhân: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 131/2010, Quyển số01/2010 đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 04-11-2010 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữachị H và anh L là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [5] Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H xác định giữa chị và anh L phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh L không có sự tôn trọng đối với chị, dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ tháng 6 năm 2017 cho đến nay. Vì vậy, chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh L. Mặt khác, theo kết quả trả lời xác minh ngày 29-11-2017 về tình trạng hôn nhân thì trong quá trình chung sống giữa chị H và anh L có xảy ra cãi nhau, vợ chồng sống ly hôn hơn nữa năm nay; hiện anh L là người đang trực tiếp nuôi hai con chung. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh L là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [6] Về con chung: Chị H xác nhận giữa chị và anh L có hai con chung tênCao Thiên P1, sinh ngày 17-01-2011 (giới tính nam) và Cao Thiên P2, sinh ngày23-12-2013 (giới tính nam). Hiện tại hai trẻ đang sống cùng anh L. Khi ly hôn chịH yêu cầu giao hai con chung cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy việc giao hai con chung cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng là có cơ sở, điều này cũng đúng với kết quả xác minh. Do đó, Hội đồng xét xử giao hai con chung cho anh L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với chị Hồng.

 [7] Về tài sản chung: Chị H xác định giữa chị và anh L không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết; còn anh L vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của anh về tài sản chung giữa anh và chị H. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề tài sản chung theo yêu cầu của chị H, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

 [8] Về nợ chung: Chị H xác định giữa chị và anh L không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh L vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của anh về nợ giữa anh và chị H. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề nợ chung theo yêu cầu của chị H, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

 [9] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn chị Phạm Thị Thu H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

 [10] Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung thì đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, cần tiếp tục giao con chung cho bị đơn nuôi dưỡng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 69, Điều71, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quảnlý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Thị Thu H đối với bị đơn anh Cao Nguyễn Nhất L về việc tranh chấp ly hôn.

1.1 Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Thu H được ly hôn với anh Cao Nguyễn Nhất L. Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị Thu H và anh Cao Nguyễn Nhất L chấm dứt cũng như giấy chứng nhận kết hôn số 131/2010, Quyển số 01/2010 đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 04-11-2010 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2 Về con chung: Giao hai con chung tên Cao Thiên P1, sinh ngày 17-01- 2011 (giới tính nam) và Cao Thiên P2, sinh ngày 23-12-2013 (giới tính nam) cho anh Cao Nguyễn Nhất L tiếp tục nuôi dưỡng; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với chị Phạm Thị Thu H.

Chị Phạm Thị Thu H có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở, vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

1.3 Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Thu H xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

1.4 Về nợ chung: Chị Phạm Thị Thu H xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

2. Về án phí: Nguyên đơn chị Phạm Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà chị H đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0022496 ngày 24-7-2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Chị H đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị Thu H và anh Cao Nguyễn Nhất L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 05/02/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:22/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về