Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 04/10/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 22/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/10/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 04 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 25/2018/TLST-HNGĐ ngày 26/02/2018; Về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2018/QĐST – HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lâm Thị Mai D, sinh năm 1984. Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Hiện nay tạm trú tại: Khu phố B, xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương (có mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1976. Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

-Con chung trên 07 tuổi: Cháu Nguyễn Văn D, sinh ngày 08/8/2008. Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ngày 22 tháng 02 năm 2018, các chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên toà ngày hôm nay nguyên đơn chị Lâm Thị Mai D trình bày:

Chị D với anh Nguyễn Văn D cưới nhau năm 2006, nhưng đến ngày 16/10/2008 mới đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã P. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống bên gia đình chồng tại ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Trong thời gian đầu vợ chồng sống cũng hạnh phúc vàcó với nhau 01 đứa  con chung cháu tên Nguyễn Văn D, sinh ngày 08/8/2008. Tuy nhiên, sau đó cuộc sống vợ chồng bắt đầu gặp nhiều khó khăn, do anh D không chăm lo đời sống kinh tế gia đình, không quan tâm đến cuộc sống vợ con và vợ chồng bất đầu xảy ra mâu thuẫn, cự cãi nhau, chị D đã nhiều lần trao đổi với anh D nhưng anh D vẫn không thay đổi mà còn bạo lực gia đình đánh, chửi chị nên chị D đã dẫn con về nhà cha mẹ ruột ở và vợ chồng sống ly thân từ năm2011 cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân cho đến nay thì giữa  chị với anh D không còn qua lại, không hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, hiện nay mỗi người đã có cuộc sống riêng ổn định, không còn tình cảm với nhau nên chị yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết cho chị được ly hôn với anh D theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị D có yêu cầu được quyền nuôi con cháu Nguyễn Văn D sau khi ly hôn, không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn D trình bày ý kiến:

Anh D thống nhất với ý kiến trình bày của chị D về thời gian cưới nhau, việc đăng ký kết hôn, thời gian chung sống vợ chồng, con chung, mâu thuẫn gia đình và thời gian vợ chồng sống ly thân từ năm 2011 cho đến nay. Tuy nhiên, trước yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Dg đối với anh thì anh không đồng ý ly hôn, tại phiên tòa hôm nay anh D cũng xác định hiện nay mỗi người đã có  cuộc sống riêng, ổn định, giữa anh với chị D không còn quan tâm đến nhau, không còn tình cảm với nhau, anh cũng không có nguyện vọng được hàn gắn lại tình cảm vợ chồng nhưng anh không đồng ý ly hôn.

-Về con chung: Anh với chị D có 01 con chung cháu tên Nguyễn Văn D, sinh ngày 08/8/2008, hiện cháu D đang chung sống với chị D, được chị D nuôi dưỡng từ nhỏ cho đến nay. Nay chị D yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh cấp dưỡng sau khi ly hôn anh không có ý kiến.

-Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa hôm nay, các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu và ý kiến của mình, không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Còn cháu Nguyễn Văn D trình bày có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với mẹ (chị D), sau khi cha, mẹ cháu ly hôn.

Tại phiên tòa kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn chấp hành nghiêm theo giấy tiệu tập của Tòa án, còn bị đơn chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án nhưng khi tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải không ký tên vào biên bản là chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lâm Thị Mai D đối với anh Nguyễn Văn D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến trình bày của đương sự. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]Về nội dung: Chị Lâm Thị Mai D với anh Nguyễn Văn D cưới nhau năm 2006, nhưng đến năm 2008 mới đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, được Ủy ban nhân dân xã P, huyện C cấp giấy chứng nhận kết hôn số 212/2008 ngày 16/10/2008. Sau khi cưới, chị D với anh D sống bên gia đình của anh D và cuộc sống hôn nhân cũng hạnh phúc, vợ chồng có với nhau 01 con chung tên Nguyễn Văn D, sinh ngày 08/8/2008. Tuy nhiên, đến năm 2011 thì cuộc sống gia đình gặp khó khăn về kinh tế, theo chị D là do anh D không chăm lo làm ăn, không quan tâm cuộc sống vợ con, chị D trao đổi với anh D thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, cự cãi nhau làm cho cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên chị D dẫn con về cha mẹ ruột ở từ năm 2011 cho đến nay. Nay chị D thấy quan hệ hôn nhân giữa chị với anh D không thể hàn gắn được, mỗi người đã có cuộc sống riêng, ổn định và hai người không còn tình cảm với nhau nên nộp đơn ra Tòa án xin ly hôn với anh D theo quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Xét thấy, chị Lâm Thị Mai D với anh Nguyễn Văn D cưới nhau năm 2006, nhưng đến năm 2008 đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng theo đúng quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị D với anh D là hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, trong cuộc sống hôn nhân của họ có nhiều mâu thuẫn, chị D đã trao đổi với anh D nhưng vẫn không hàn gắn được tình cảm vợ chồng, dẫn đến vợ chồng phải sống ly thân từ năm 2011 cho đến nay, trong thời gian ly thân giữa anh D và chị D không có động thái tích cực nào để hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, dẫn đến hiện nay mỗi người có cuộc sống riêng, ổn định và không còn tình cảm với nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự cũng không có nguyện vọng để hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, chị D cương quyết xin ly hôn còn anh D không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra lý do. Xét thấy, đến thời điểm hiện nay mâu thuẫn hôn nhân giữa chị D với anh D đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài và tại phiên Tòa hôm nay chị Lâm Thị Mai D cương quyết xin ly hôn với anh Nguyễn Văn D nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lâm Thị Mai D đối với anh Nguyễn Văn D.

[3] Về con chung: Chị Lâm Thị Mai D với anh Nguyễn Văn D có 01 con chung tên Nguyễn Văn D, sinh ngày 08/8/2008, hiện do chị D đang chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị D có yêu cầu được quyền nuôi con sau khi ly hôn, còn anh D không có ý kiến đối với yêu cầu của chị D và cũng như không có yêu cầu được quyền nuôi con. Xét thấy, chị D là người đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu D và chăm sóc cháu D từ nhỏ cho đến nay, còn anh D sau khi chị D dẫn con về nhà cha mẹ ruột sinh sống thì anh D không còn quan tâm và thăm non con chung, nên để đảm bảo sự ổn định cuộc sống của cháu D và cũng như việc học tập của cháu, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao con chung cho chị D chăm sóc, nuôi dưỡng sau khi ly hôn với anh D là phù hợp với điều kiện thực tế và theo nguyện vọng của cháu D là đúng quy định của pháp luật về Hôn nhân gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Theo đơn khởi kiện chị Lâm Thị Mai D có yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án tại các phiên hòa giải và cũng như tại phiên tòa hôm nay chị D không yêu cầu anh Nguyễn Văn D phải cấp dưỡng nuôi con sau khily hôn nên Hội  đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5]Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chị Lâm Thị Mai D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định là 300.000 đồng.

[6] Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1,3 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khỏa 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án

Áp dụng: Điều 51; Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 Tuyên xử:

1/ Về hôn nhân: Chị Lâm Thị Mai D được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

2/ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn D, sinh ngày 08 tháng 8 năm 2008 cho chị Lâm Thị Mai D tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

Ông Nguyễn Văn D được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Ông Nguyễn Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con, do chị Lâm Thị Mai D không yêu cầu cấp dưỡng, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3/ Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lâm Thị Mai D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009928 ngày 22/02/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, chị D đã nộp xong.

5/ Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự, thủ tục phúc thẩm.

6/ Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 04/10/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về