Bản án 22/2017/DS-ST ngày 15/09/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 22/2017/DS-ST NGÀY 15/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 15/9/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 42/2017/TLST-DS ngày 19/5/2017 về tranh hợp đồng tín dụng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2017/QĐST-DS ngày 01/8/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng V

Địa chỉ: Phố Đ, phường Đ, quận K, thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp: Ông Q

Địa chỉ: Đường L, khóm 1, phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Tăng M (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp S, xã A, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện lập ngày 20/3/2017 của nguyên đơn Ngân hàng V (sau đây gọi là Ngân hàng) yêu cầu ông Tăng M trả cho Ngân hàng tổng số tiền vốn và lãi là 13.801.635 đồng (trong đó vốn vay 11.548.433 đồng và lãi là2.253.202 đồng), vì vào ngày 21/7/2014 ông M có ký kết hợp  đồng tín dụng số 20140722 – 112015 – 0002 với Ngân hàng vay số tiền 18.585.000 đồng, lãi suất 4,59%/tháng để tiêu dùng cá nhân. Theo thỏa thuận tại hợp đồng, ông M có trách nhiệm thanh toán số tiền gốc là 18.585.000 đồng và lãi là 6.796.635 đồng, tổng cộng 25.381.635 đồng và trả chậm liên tiếp trong 13 tháng, thanh toán vào ngày 01dương lịch hàng tháng, 12 tháng đầu mỗi  tháng trả 1.929.946 đồng, tháng cuối trả 2.222.283 đồng, bắt đầu trả từ ngày 01/9/2014 đến 01/10/2015 là dứt nợ. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông M đã nhận đủ số tiền và có trả cho Ngân hàng được 06 với số tiền 11.580.000 đồng (gốc 7.036.245 đồng và lãi 4.543.755 đồng), còn nợ lại 13.801.635 đồng (trong đó vốn gốc là 11.548.433 đồng và lãi là 2.253.202 đồng).

- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Tăng M, nhưng ông M không có văn bản trình bày ý kiến, không đến Tòa án cung cấp lời khai, không đến tham dự buổi hòa giải cũng như không đến phiên tòa để trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn ông Tăng M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông M.

[2] Khi thụ lý Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” là chưa phù hợp, bởi vì giữa Ngân hàng là tổ chức tín dụng cho ông M vay tiền theo hợp đồng tín dụng, nên Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” thì mới phù hợp với quy định của pháp luật

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng V, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số 20140722–112015–0002 ông M có vay của Ngân hàng số tiền 18.585.000 đồng, lãi suất 4,59%/tháng để tiêu dùng cá nhân. Theo thỏa thuận tại hợp đồng, ông M có trách nhiệm thanh toán số tiền gốc là 18.585.000 đồng và lãi là 6.796.635 đồng, tổng cộng 25.381.635 đồng và trả chậm liên tiếp trong 13 tháng, thanh toán vào ngày 01 dương lịch hàng tháng, 12 tháng đầu mỗi tháng trả 1.929.946 đồng, tháng cuối trả 2.222.283 đồng, bắt đầu trả từ ngày 01/9/2014 đến 01/10/2015 là dứt nợ. Ông M đã nhận đủ số tiền, trong quá trình thực hiện hợp đồng có trả cho Ngân hàng được 06 kỳ tổng cộng là 11.580.000 đồng (gốc 7.036.245 đồng và lãi 4.543.755 đồng) thì ngưng, không tiếp tục trả cho Ngân hàng theo thỏa thuận, hiện còn nợ lại số tiền 13.801.635 đồng (trong đó vốn gốc là 11.548.433 đồng và lãi là 2.253.202 đồng). Xét thấy, việc ông M không thực hiện nghĩa vụ trả tiếp dư nợ và lãi theo giao kết trong hợp đồng đã vi phạm Điều 2 và Điều 7 của Hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết, ông M là người có lỗi và là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật nên Ngân hàng kiện đòi ông M trả lại số tiền nêu trên phù hợp với quy định tại Điều 280, khoản 1 và khoản 5 Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông M, có nội dung Ngân hàng khởi kiện đòi ông M trả số tiền vốn và lãi vay như trên, nhưng ông M không có văn bản trình bày ý kiến và cũng không phản đối những tình tiết, sự kiện do Ngân hàng xuất trình, nên căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định ông M có vay tiền của Ngân hàng hiện còn nợ số tiền 13.801.635 đồng, nên Ngân hàng yêu cầu ông M trả số tiền nên trên là có căn cứ. Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Ngoài ra, khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ Ngân hàng V có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông M phải trả lãi cho Ngân hàng theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm thi hành án.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn ông Tăng M phải chịu 690.081 đồng án phí sơ thẩm, nguyên đơn Ngân hàng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và khoản 3 Điều 235, khoản 1 Điều 244, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 280 và Điều 474 của Bộ luật dân sự năm 2005; Khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật thi hành án dân sự.

 Tuyên xử :

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng V. Buộc bị đơn ông Tăng M có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng V số tiền vay gốc là 11.548.433 đồng và lãi là 2.253.202 đồng, tổng cộng 13.801.635 đồng (Mười ba triệu tám trăm lẻ một ngàn sáu trăm ba mươi lăm đồng).

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày Ngân hàng V có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông Tăng M còn phải trả lãi cho Ngân hàng V theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm thi hành án.

2/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Tăng M phải chịu 690.081 đồng (Sáu trăm chín mươi ngàn không trăn tám mươi mốt đồng).

Nguyên đơn Ngân hàng V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí là 345.025 đồng theo biên lai thu tạm ứng ánphí, lệ phí tòa án số 0006303, ngày  18/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.

3/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Tăng M vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2017/DS-ST ngày 15/09/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:22/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về