Bản án 219/2021/HS-PT ngày 16/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 219/2021/HS-PT NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số:152/2021/HSPT ngày 27 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Trần Anh H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2021/HS-ST ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo kháng cáo:

Trần Anh H; giới tính: Nam; Sinh năm 1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 75/15 đường D, phường T, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: 2/12 đường B1, Phường B2, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Anh C (chết) và con bà (không rõ); Tiền án: không;

Tiền sự: Ngày 19/01/2018 bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 21 tháng (theo Quyết định số 06/QĐ-TA ngày 19/01/2018), đến ngày 27/8/2019 bị cáo chấp hành xong.

Nhân thân: Ngày 22/3/2016 bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng 21 ngày tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (theo Bản án số 67/2016/HSST ngày 22/3/2016).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/10/2020 (bị cáo có mặt tại phiên toà).

- Bị hại: Anh Võ Hoàng Q, sinh năm 1981; trú tại: 108 lô D chung cư G, phường Q, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài nên Trần Anh H nảy sinh ý định tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp. Vào khoảng 16 giờ 00 ngày 26/10/2020, H một mình điều khiển xe mô tô biển số 59F1-XXX.XX đến chung cư G, phường Q, quận P và dựng xe tại đây, rồi H đi bộ quanh các tầng của chung cư tìm kiếm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến căn hộ số 108 lô D, chung cư G, H nhìn qua cửa sổ phát hiện trên bàn máy vi tính đặt tại phòng khách căn hộ này có để hai điện thoại di động và một máy tính bảng, không có người trông coi nên H tiếp cận cửa ra vào của căn hộ này để kiểm tra thì nghe có tiếng động bên trong nên H bỏ đi.

Khoảng 05 phút sau, H quay lại căn hộ trên rồi lén lút bật khóa tay gạt cửa và mở cửa kính rồi H tiếp tục đi quanh hành lang tầng 1 để xem có người hay không, để phòng khi tẩu thoát. H phát hiện thấy không có ai nên H lén lút đi vào trong căn hộ 108 lô D qua cửa ra vào và tiến đến bàn máy vi tính lấy trộm hai điện thoại di động và một máy tính bảng rồi tẩu thoát.

Khi H vừa đi ra đến cửa ra vào căn hộ thì anh Võ Hoàng Q từ trong nhà đi ra phát hiện liền truy hô “Trộm… trộm” và anh Q truy đuổi thì H liền bỏ chạy về hướng cầu thang bộ, khi đến trước cửa căn hộ 112 bis lô D, chung cư G thì H vứt bỏ lại số tài sản vừa lấy trộm được và tiếp tục chạy bộ xuống cầu thang để xuống tầng trệt. Nhưng khi đó, anh Nguyễn Mạnh L nghe tiếng truy hô của anh Q nên từ căn hộ của mình chạy xuống thì phát hiện H nên anh L tiếp tục truy hô “trộm…trộm”, còn H bỏ chạy đến trước số nhà 65 G thì H bị anh Hà cùng quần chúng nhân dân bắt giữ rồi bàn giao cho Công an phường Tân Quý xử lý.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 2623/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 25/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân quận Tân Phú đã kết luận: 01điện thoại di động hiệu IPhone 6S Plus, màu vàng, dung lượng 16 GB có giá 2.500.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu IPhone X, màu trắng, dung lượng 64GB có giá 7.500.000 đồng và 01 máy tính bảng hiệu Sams Mung Galaxy Tab 3V, màu đen có giá 800.000 đồng. Tổng cộng giá trị tài sản H chiếm đoạt là 10.800.000 đồng.

Toàn bộ tài sản nêu trên đã được trả lại cho bị hại Võ Hoàng Q.

Theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2021/HS-ST ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Trần Anh H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt bị cáo Trần Anh H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 26/10/2020.

Ngoài ra, bản án tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 22/3/2021 bị cáo Trần Anh H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Sau khi phân tích hành vi của bị cáo Trần Anh H theo nội dung của bản án sơ thẩm, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và mức án 02 năm tù là phù hợp nên đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 26/10/2020, lợi dụng sự sơ hở của chủ căn hộ số 108 lô D, chung cư G, phường Q, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Anh H đã lén lút đột nhập vào căn hộ này và chiếm đoạt của anh Võ Hoàng Q 02 điện thoại di động, 01 máy tính bảng (qua định giá các tài sản này có tổng trị giá là 10.800.000 đồng).

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bị cáo Trần Anh H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Ngày 17/3/2021 Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 22/3/2021 bị cáo làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên hợp lệ để giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[3] Xét nội dung kháng cáo:

Bị cáo Trần Anh H đã lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại có tổng giá trị 10.800.000 đồng. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi mà bị cáo vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, nên cần có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo. Tuy vậy, khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét đến hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, H quả của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo H thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi và trả lại cho bị hại nên chưa gây thiệt hại; quá trình điều tra bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Và các tình tiết này đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng và tuyên phạt bị cáo mức án 02 năm tù.

Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã nêu trên, nhưng bản thân bị cáo có nhân thân xấu về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị đưa đi cai nghiện bắt buộc thời gian 21 tháng, nên mức án 02 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là tương xứng với hành vi, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên.

[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận lời trình bày của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Anh H và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Xử phạt: Trần Anh H 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2020.

Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 219/2021/HS-PT ngày 16/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:219/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về