TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 219/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 06 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 321/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 227/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 269/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Bích H, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn KGN, xã HH, thị xã HN, tỉnh BĐ.
2. Bị đơn: Anh La Thành X, sinh năm 1985, địa chỉ: Thôn KGN, xã HH, thị xã HN, tỉnh BĐ.
(Chị H vắng mặt, anh X có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn chị Huỳnh Thị Bích H vắng mặt tại phiên tòa, nhưng theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng chị H khai: Chị và anh X tự nguyện kết hôn có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã HH ngày 17/7/2017. Sau kết hôn vợ chồng sống chung cùng gia đình bên chồng tại thôn KGN, xã HH, thị xã HN, tỉnh BĐ. Trong quá trình chung sống mâu thuẫn vợ chồng xảy ra nguyên nhân là do tính tình không hợp, nên thường hay cãi vã. Vì không chịu đựng được nên chị bỏ ra đi từ tháng 4/2018 cho đến nay và kể từ đó vợ chồng sống xa cách nhau, không ai quan tâm gì đến ai. Nay chị thấy vợ chồng sống không hạnh phúc, không thể sống chung được nữa, chị yêu cầu được ly hôn. Vợ chồng có 01 con chung là cháu La A Mê R - sinh ngày 21/3/2017, sau ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh X phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì bận công việc làm ăn ở xa, chị có đơn xin đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt - Bị đơn anh La Thành X trình bày: Anh và chị H tự nguyện kết hôn có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã HH ngày 17/7/2017. Sau kết hôn vợ chồng sống chung cùng gia đình bên chồng, do chị H mâu thuẫn với gia đình nên vợ chồng ra thuê nhà ở riêng, rồi vào SG thuê nhà ở làm ăn. Vì làm ăn thua lỗ nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị H xua đuổi và có những lời lẽ xúc phạm đến anh và gia đình. Thấy vậy anh bỏ về sống chung cùng gia đình từ tháng 02/2019 cho đến nay, nhiều lần anh đã gọi điện thoại khuyên can để chị H về chung sống nhưng chị H không đồng ý. Nay chị H yêu cầu ly hôn, vì vợ chồng sống không hạnh phúc, anh đồng ý ly hôn. Vợ chồng có 01 con chung là cháu La A Mê R do anh nuôi dưỡng từ tháng 02/2019 cho đến nay. Sau ly hôn anh không đồng ý giao con cho chị H nuôi dưỡng, vì chị H chưa có công việc làm và nơi ở ổn định nên không thể đảm bảo cho việc nuôi con tốt hơn được. Do đó anh yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thực hiện đúng với quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu của chị H được ly hôn anh X. Giao cháu La A Mê R cho anh X trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện nuôi con của anh X không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung không yêu cầu giải quyết. Về án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Đây là vụ án: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo qui định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh La Thành Xuân có địa chỉ cư trú tại thôn KGN, xã HH, thị xã HN, tỉnh BĐ. Do đó Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo qui định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Nguyên đơn chị H có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt vì bận công việc làm ăn ở xa. Theo qui định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt.
Về nội dung:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh X tự nguyện kết hôn có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã HH ngày 17/7/2017 là hôn nhân hợp pháp. Sau kết hôn vợ chồng sống chung cùng gia đình bên chồng đến tháng 4/2018 thì ra thuê nhà ra ở riêng, rồi vào SG thuê nhà ở làm ăn. Trong thời gian chung sống mâu thuẫn vợ chồng xảy ra nguyên nhân là do tính tình không hợp, do làm ăn bị thua lỗ nên vợ chồng thường hay cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Từ tháng 02/2019 anh X bỏ về chung sống cùng gia đình và nhiều lần gọi điện khuyên can chị H trở về chung sống nhưng chị H không đồng ý. Kể từ đó vợ chồng sống xa cách, không ai quan tâm gì đến ai, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt. Vì sống không hạnh phúc nay anh X đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H.
Từ những tình tiết và phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H là có căn cứ và đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2] Về nuôi con chung:
Từ bấy lâu nay cháu La A Mê R do anh X trực tiếp nuôi dưỡng. Trong quá trình giải quyết vụ án và cho đến nay, chị H không có chứng cứ nào cung cấp cho Tòa án để chứng minh hiện tại cuộc sống của chị có đủ điều kiện để nuôi con tốt hơn. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh X, giải quyết giao cháu La A Mê R cho anh X tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của anh X không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con là có căn cứ và đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về tài sản chung: Không có yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4] Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị H phải chịu theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 ngày 12 tháng 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 81 và các Điều 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 ngày 12 tháng 2016.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Bích H và anh La Thành X được ly hôn.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu La A Mê R, sinh ngày 21/3/2017 cho anh X trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh X không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.
Chị H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị Huỳnh Thị Bích H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) sung vào ngân sách nhà nước. Chị H đã tạm ứng đủ theo biên lai thu số 0005447 ngày 17/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hoài Nhơn nên được tính trừ.
Anh X có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị H có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được nhận hoặc được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã HH, để Toà án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử theo trình tự phúc thẩm.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 219/2020/HNGĐ-ST ngày 06/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 219/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoài Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về