Bản án 218/2018/DS-ST ngày 05/11/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 218/2018/DS-ST NGÀY 05/11/2018VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 248/2018/TLST–DS ngày28 tháng 8 năm 2018 về việc tranh chấp “hợp đồng mua bán tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2215/2018/QĐST –DS ngày 12 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Huỳnh Văn L, sinh năm 1990; địa chỉ: 5/2 ấp PLPB, xã K, huyện P, tỉnh Bến Tre. Có mặt.

Bị đơn:

- Huỳnh Văn B, sinh năm 1969; địa chỉ: 110/2 ấp PLPB, xã K, huyện P,tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

- Bùi Thị Cẩm T, sinh năm 1971; địa chỉ: 144/3 ấp BK, xã K, huyện P, tỉnh Bến Tre. Có yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng nguyên đơn Huỳnh Văn L trình bày:

Vào năm 2014 anh có hợp đồng mua bán thức ăn với ông Huỳnh Văn B và bà Bùi Thị Cẩm T; mục đích ông B và bà T mua thức ăn của anh là để chăn nuôi heo, gà nhằm phục vụ phát triển kinh tế chung trong gia đình. Hình thức mua bán là anh sẽ giao thức ăn cho ông B và bà T trước đến khi ông B, bà T bán heo, gà sẽ trả đủ tiền thức ăn cho anh. Đồng thời hai bên có mở sổ ghi nợ theo dõi việc mua bán giao nhận thức ăn và ghi nợ, sổ theo dõi do mỗi bên giữ 01 quyển nhưng khi ông B và bà T bán heo, gà thì không trả nợ cho anh như cam kết. Ngày 11/4/2016 anh và ông B, bà Thuý có tổng kết nợ thì ông B, bà Thuý còn nợ anh số tiền 55.000.000 đồng; ông B có ghi và ký tên vào giấy xác nhận ngày 11/4/2016 và cam kết sẽ trả nợ cho anh vào cuối năm 2016 nhưng khi đến hạn trả nợ thì ông B, bà Thuý vẫn không thực hiện cho đến nay.

Tại phiên toà anh yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Huỳnh Văn B và bà BùiThị Cẩm T phải liên đới trả cho anh số tiền 55.000.000 đồng; anh yêu cầu trả 01 lần; không yêu cầu tính lãi.

Theo bản tự khai ngày 10/10/2018 bị đơn Bùi Thị Cẩm T trình bày:

Vào năm 2012 ông Huỳnh Văn B có chăn nuôi gà và mua thức ăn của đại lý Tư Phước do anh Huỳnh Văn L làm chủ và nợ anh L số tiền khoảng 40.000.000 đồng. Do chăn nuôi thua lỗ nên ông B vẫn chưa trả được nợ cho anh L; tính đến ngày11/4/2016 tổng cộng tiền vốn và tiền lãi ông B còn nợ anh L là 55.000.000 đồng và ông B có viết giấy xác nhận nợ cho anh L. Thời điểm đó bà và ông B vẫn còn chung sống hạnh phúc. 

Qua yêu cầu khởi kiện của anh L thì bà đồng ý liên đới với ông Huỳnh Văn B để trả cho anh Huỳnh Văn L số tiền 55.000.000 đồng. Do hiện nay bà còn nợ tiền rất nhiều người nên không thể cam kết thời gian trả nợ được. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định.

Bị đơn Huỳnh Văn B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần các thông báo nhưng ông B vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không cung cấp chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về thẩm quyền: Bị đơn Huỳnh Văn B có đăng ký hộ khẩu tại 110/2 ấp PLPB, xã K, huyện P, tỉnh Bến Tre và Bùi Thị Cẩm T hiện có sinh sống và đăng ký hộ khẩu tại ấp BK, xã K, huyện P, tỉnh Bến Tre do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú theo quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về tố tụng: Bà Bùi Thị Cẩm T có yêu cầu xét xử vắng mặt, ông Huỳnh Văn B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng ông B vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông Huỳnh Văn B và bà Bùi Thị Cẩm T.

[4] Về nội dung vụ án: anh Huỳnh Văn L yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ôngHuỳnh Văn B và bà Bùi Thị Cẩm T phải liên đới trả cho anh L số tiền 55.000.000 đồng; yêu cầu trả 01 lần; không yêu cầu tính lãi. Bà T đồng ý liên đới với ông Huỳnh Văn B để trả tiền cho anh L nhưng do hiện nay bà nợ quá nhiều người nên bà không cam kết thời hạn và cách thức trả nợ cụ thể được.

[5] Xét thấy hợp đồng mua bán tài sản giữa anh L và ông Huỳnh Văn B được xác L trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, không bị lừa dối hoặc bị ép buộc và không vi phạm quy định tại Điều 121, Điều 122 của Bộ luật Dân sự năm 2005 nên được xem là hợp đồng hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án bà T thừa nhận “giấy xác nhận ngày 11/4/2016” là do ông B viết và ký tên nên đây là chứng cứ của vụ án theo quy định tại Điều 93 và khoản 1 Điều 95 của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được các bên thừa nhận. Đồng thời bà T thừa nhận bà và ông B có nợ anh L số tiền 55.000.000 đồng và đồng ý liên đới với ông B để trả cho anh L số tiền nêu trên. Lẽ đó việc anh L yêu cầu ông Huỳnh Văn B và bà Bùi Thị Cẩm T có nghĩa vụ liên đới trả cho anh số tiền 55.000.000 đồng là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Do anh L không yêu cầu tính tính lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Ông Huỳnh Văn L và bà Bùi Thị Cẩm T phải liên đới nộp án phí theo quy định của pháp luật được tính như sau: 55.000.000 đồng x 5% = 2.750.000 đồng.

[8] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, điểm b, khoản 1 Điều 35, 39, 147, 227, 266 của Bộ luật tốtụng dân sự; Điều 428, 438 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụQuốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Văn L. Buộc ông Huỳnh Văn Lvà bà Bùi Thị Cẩm T phải liên đới trả cho anh Huỳnh Văn L số tiền 55.000.000 đồng.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiềncòn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Do anh L không yêu cầu ông B và bà T phải trả lãi nên không xem xét giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: ông Huỳnh Văn B và bà Bùi Thị Cẩm T phải liên đới nộp 2.750.000 đồng (Hai triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Anh Huỳnh Văn L được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre hoàn trả số tiền 1.375.000 đồng theo biên lai thu số 0018589 ngày 28/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày (mười lăm ngày), kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

431
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 218/2018/DS-ST ngày 05/11/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:218/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về