Bản án 216/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 216/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 102/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 3 năm 2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 209/2019/QĐXXST-DS ngày 26/4/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn

Bà Đỗ Thị Chúc L, sinh năm 1989;

Nơi cư trú: Ấp H, xã P, huyện P, tỉnh An Giang.

Bị đ ơn : Ông Lê Hoàng G, sinh năm 1989;

Nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An giang.

(Bà L có mặt, ông G vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai cùng cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo của bà Đỗ Thị Chúc L trình bày: Hôn nhân giữa bà và ông Lê Hoàng G là tự tìm hiểu, yêu thương tiến tới hôn nhân vào năm 2009, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện P, tỉnh An Giang ngày 30/6/2009. Sau khi kết hôn thì bà và ông G sống tại quê một thời gian, sau đó lên Bình Dương làm công nhân. Nguyên nhân bà xin ly hôn là do ông G không chăm lo gia đình, bạo lực gia đình, giữa bà và ông G bất đồng quan điểm và không thể sống chung.

Nhận thấy bà và ông G đời sống chung không hạnh phúc và không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu xin ly hôn với ông G.

Về con chung: Bà với ông G có 02 con chung: 01/ Lê Hoàng Khánh N, sinh ngày 22/3/2010; 02/ Lê Hoàng Nhựt Q, sinh ngày 05/4/2016. Hiện cả hai cháu N và Q do bà trực tiếp nuôi dạy. Khi ly hôn, bà yêu cầu nuôi dạy hai con chung N và Q, không yêu cầu ông Giang cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Lê Hoàng G theo quy định, nhưng ông G vắng mặt, mặc dù trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án có phân công cán bộ đến tại nhà của ông G làm việc nhưng vẫn không gặp ông G để ghi lời khai.

Chứng cứ thu thập được: Tại biên bản làm việc ngày 26/4/2019 được Bà Đặng Thị T – Phó ấp P, xã P cho biết: Bà L và ông G sống chung nhưng không hạnh phúc, hiện L và G cũng đã ly thân nhau. Theo bà khả năng hàn gắn của L và G là không thể được. Về con chung: có 02 con chung hiện đang sống với bà L.

Tại biên bản xác minh ngày 26/4/2019 được ông Nguyễn Quốc V – Phó Trưởng Công an xã P cho biết: Ông Lê Hoàng G vẫn còn đăng ký hộ khẩu tại ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

Tại Phiên tòa bà L bảo lưu ý kiến. Riêng ông G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông G theo thủ tục chung.

Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Bà Đỗ Thị Chúc L khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lê Hoàng G, ông G cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông G được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 (hai) tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông G theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà L, ông G tự tìm hiểu đi đến hôn nhân, có tổ cức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện P theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu của bà L xin ly hôn với ông G. Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân giữa bà L và ông G đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn, ông G không đến Tòa xem như không có thiện chí muốn hàn gắn với bà L. Theo lời trình bày của bà T thì khả năng hàn gắn của bà L và ông G là không thể, hai bên thường xuyên cải nhau. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn của bà L và ông G không thể hàn gắn, thật sự trầm trọng nên Hội đồng xét xử chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà L theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Có 02 con chung. 1/ Lê Hoàng Khánh N, sinh ngày 22/3/2010; 02/ Lê Hoàng Nhựt Q, sinh ngày 05/4/2016. Hiện cả hai cháu N và Q do bà L trực tiếp nuôi dạy, khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy hai con chung, không yêu cầu ông G cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu N cũng trình bày nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận để cho bà L tiếp tục nuôi dạy con chung là phù hợp.

[5] Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà L không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của L.

[6] Về án phí: Bà L là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân. Các bên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm b, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Chúc L.

Về hôn nhân: Bà Đỗ Thị Chúc L được ly hôn với ông Lê Hoàng G.

Giấy chứng nhận kết hôn số 83 ngày 30/6/2009 của Ủy ban nhân dân xã P, huyện P không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Bà Đỗ Thị Chúc L được tiếp tục nuôi dạy 02 con chung: 01/ Lê Hoàng Khánh N, sinh ngày 22/3/2010; 02/ Lê Hoàng Nhựt Q, sinh ngày 05/4/2016. Công nhận sự tự nguyện của bà L không yêu cầu ông Giang cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà L cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông G trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà Đỗ Thị Chúc L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011166 ngày 12/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (bà L đã nộp đủ).

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (31/5/2019) bà L có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn này đối với ông G được tính kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 216/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:216/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về