Bản án 213/2021/HSST ngày 23/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 213/2021/HSST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 190/2021/HSST-TL ngày 15/7/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc H, Sinh năm: 1961, ĐKHKTT: Số 59 phố L, khóm 3, phường 2, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp, Nơi ở: Không cố định, Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không, Nghề nghiệp: Không, Trình độ văn hóa: 07/10, Họ và tên bố: Nguyễn Văn T ( Đã chết ), Họ và tên mẹ: Đặng Thị N ( Đã chết ).Gia đình có 05 anh chị em, bị can là con thứ năm, Họ và tên vợ: Nguyễn Thị Q (Sinh năm: 1971). Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 1991, con bé sinh năm 2004. Theo Danh chỉ bản số: 00000199, lập ngày 12/3/2021, tại Công an quận Long Biên, Hà Nội bị cáo có: 09 tiền án, 01 tiền sự - Tiền sự: năm 1985 về hành vi Trộm cắp tài sản.

- Tiền án: 09 tiền án như sau:

+ Bản án số 21/1988/HSST ngày 14/6/1988, Tòa án nhân dân thị xã Sa Đéc, Đồng Tháp xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân (trị giá tài sản 10.000 đồng).

+ Bản án số 31/ST ngày 01/12/1989, Tòa án nhân dân Quận 1, TP Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân (Công văn số 903/ĐTTH ngày 12/5/2021 của Cơ quan CSĐT-Công an Quận 1-TP Hồ Chí Minh trả lời kết quả ủy thác điều tra: TAND Quận 1 không có bản án số 31/ST ngày 01/12/1989).

+ Bản án số 31/1991/HSST ngày 27/8/1991, Tòa án nhân dân thị xã Sa Đéc, Đồng Tháp xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân; 02 năm 06 tháng tù về tội Trốn khỏi nơi giam giữ. Tổng hợp hình phạt với bản án số 31/ST ngày 01/12/1989 buộc bị cáo phải chấp hành 09 năm 01 tháng 14 ngày tù. Hạn tù tính từ ngày 07/4/1991. Đã nộp án phí ngày 26/3/1997.

+ Bản án số 152/HSST ngày 22/5/1998, Tòa án nhân dân Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân (trị giá tài sản 4.000.000 đồng). Hạn tù tính từ ngày 26/01/1998. Đã nộp án phí vào tháng 5/2006 +Bản án số 149/2001/HSST ngày 08/8/2001, Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 11.600.000 đồng). Hạn tù tính từ ngày 30/3/2001. Ra trại ngày 30/9/2003. Bị can chưa được xóa án tích.

+Bản án số 26/2005/HSST ngày 23/5/2005, Tòa án nhân dân thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 3.750.000 đồng). Hạn tù tính từ ngày 19/02/2005. Ra trại ngày 19/12/2006. Bị can chưa được xóa án tích.

+Bản án số 18/HSST ngày 13/5/2008, Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 2.300.000 đồng). Hạn tù tính từ ngày 27/01/2008. Ra trại ngày 30/8/2011. Bị can chưa được xóa án tích.

+ Bản án số 227/HSST ngày 24/6/2013, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Đánh bạc (Số tiền đánh bạc 6.600.000 đồng). Hạn tù tính từ ngày 10/12/2012. Ra trại ngày 10/12/2014. Bị can chưa được xóa án tích.

+Bản án số 43/HSST ngày 10/9/2015, Tòa án nhân dân huyện H Vang, thành phố Đà Nẵng xử phạt 05 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 3.920.000 đồng). Hạn tù tính từ ngày 29/4/2015. Ra trại ngày 29/4/2020. Bị can chưa được xóa án tích. Bị can phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Bị cáo bị giam giữ từ ngày 01/3/2021, tạm giam từ ngày 10/3/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an Thành phố Hà Nội. ( Có mặt )

* Bị hại:

+ Chị Ngô Phương A, Sinh năm: 1968, ĐKHKTT: Số 32 H, phường H, Hoàn Kiếm, Hà Nội. ( Vắng mặt)

+Chị Phạm Ngọc T, Sinh năm: 1992, ĐKHKTT: Số 4 ngách 135/17/17 phố H, phường B, Long Biên, Hà Nội. ( Vắng mặt)

+Chị Dương Thị H, Sinh năm: 1990, ĐKHKTT: xã N, huyện V, Hưng Yên. ( Vắng mặt)

* Người có quyền lợi liên quan:

+ Chị Dương Thị H , Sinh năm: 1990, HKTT: xã N, huyện V, Hưng Yên.

+ Anh Trần Minh T, Sinh năm: 1960 và chị Ngô Thị Y, HKTT: Số 29/399/22 phố N, phường N, Long Biên, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17h30’ ngày 01/3/2021 Công an phường Long Biên tiếp nhận từ lực lượng an ninh Trung tâm thương mại AEON Long Biên, phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội đối tượng Nguyễn Ngọc H có hành vi trộm cắp 01 điện thoại Iphone 7 plus của chị Ngô Phương A (Sinh năm: 1968, HKTT: Số 32 phố G, phường H, Hoàn Kiếm, Hà Nội) tại khu vực quầy bán đồ hải sản siêu thị tầng 1 - Trung tâm thương mại AEON Long Biên.

Tạm giữ của H: 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu hồng, dung lượng 128 Gb;

01 xe máy Honda Wave α màu xanh, BKS: 89L1-184.67; 01 điện thoại Realme C2; 01 đồng hồ nhãn hiệu Longines màu vàng; 01 Chứng minh nhân dân; 01 Giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc H; số tiền 3.800.000 đồng.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 57/KL-HĐĐGTS ngày 02/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên, kết luận: 01 điện thoại Iphone 7 plus màu hồng đã qua sử dụng và sim điện thoại, trị giá: 4.200.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 16h00 ngày 01/3/2021, Nguyễn Ngọc Hoà điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave α BKS: 89L1-184.67 đến Trung tâm thương mại AEON Long Biên, phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội mục đích để trộm cắp tài sản. Khi vào siêu thị ở tầng 1 Hoà phát hiện chị Ngô Phương A để 01 chiếc túi xách không kéo khóa trong xe đẩy hàng nên H đã đi theo chị Phương A. Đến khu vực quầy hải sản, lợi dụng lúc chị Phương A không để ý H đã dùng tay trái thò vào trong túi xách của chị Phương A lấy được 01 chiếc điện thoại Iphone 7 plus màu hồng rồi giấu vào cạp quần bên trái H đang mặc. Toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của H bị anh Cao Minh H (Sinh năm: 1998, HKTT: Tổ 1 phường P, Long Biên, Hà Nội) là nhân viên bảo vệ của Trung tâm thương mại theo dõi nên khi H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của chị Phương A đã bị anh H phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Quá trình đấu tranh mở rộng vụ án Cơ quan điều tra còn làm rõ vào chiều ngày 23/02/2021 tại quầy thịt tầng 1 siêu thị -Trung tâm thương mại AEON Long Biên, Nguyễn Ngọc H có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 12 màu trắng của chị Phạm Ngọc T (Sinh năm: 1992, HKTT: Số 4 ngách 135/17/17 phố Hoàng Như Tiếp, phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội) do trước đó H phát hiện chị T có đeo 01 chiếc túi xách không khóa. H đã đứng sát chị T rồi dùng tay phải lấy chiếc điện thoại Iphone 12 màu trắng từ túi xách của chị T rồi giấu vào túi quần bên phải H đang mặc. Sau khi trộm cắp được chiếc điện thoại trên H đi đến khu vực bến xe Đuôi Cá bán chiếc điện thoại trộm cắp được cho người đàn ông không quen biết được 3.000.000 đồng. Số tiền trên H đã chi tiêu cá nhân hết. Hiện Cơ quan điều tra không thu hồi được chiếc điện thoại trên.

Tại bản kết luận định giá số 64/KL-HĐ ngày 11/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 128 GB màu trắng đã qua sử dụng và sim điện thoại trị giá 23.097.700 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra bị can Nguyễn Ngọc H khai nhận như trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu xanh, BKS: 89L1- 184.67 tạm giữ của Nguyễn Ngọc H, số khung: RLHHC1219DY788306; số máy: HC12E5788416, kết luận giám định là số nguyên thủy. Đăng ký xe mang tên Dương Thị H (Sinh năm: 1990, HKTT: Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên). Chị Dương Thị H khai nguồn gốc chiếc xe trên là của chị mua và đăng ký BKS 89L- 184.67 vào tháng 11/2015. Ngày 03/02/2020 chị bị mất chiếc xe trên cùng đăng ký để trong cốp xe ở Bệnh viện Đa khoa Phố Nối, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng do bận công việc nên chị H không đến Cơ quan công an trình báo. H khai chiếc xe trên H mượn của anh Trần Minh T (Sinh năm: 1960, HKTT: Số 29/399/22 phố N, phường N, Long Biên, Hà Nội). Anh T khai nguồn gốc chiếc xe trên là vào khoảng tháng 2/2020 Nguyễn Thành Trung (không xác định được nhân thân lai lịch) mượn của vợ anh T là chị Ngô Thị Y số tiền 5.000.000 đồng, Trung để lại chiếc xe máy BKS: 89L1-184.67 cùng đăng ký xe để làm tin và hẹn 01 tháng sau sẽ quay lại lấy xe nhưng cũng không thấy Trung quay lại. Vào các ngày 23/02/2021 và 01/3/2021 anh T cho bạn là Nguyễn Ngọc H mượn chiếc xe trên, anh T không biết H mượn xe để đi trộm cắp tài sản.

Ngày 20/6/2021 Cơ quan CSĐT-Công an thị xã Mỹ Hào, Hưng Yên đã tiếp nhận hồ sơ vụ trộm cắp tài sản trên từ Cơ quan CSĐT-Công an quận Long Biên để giải quyết theo thẩm quyền và đề nghị Cơ quan CSĐT-Công an quận Long Biên xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 điện thoại Realme C2; 01 đồng hồ nhãn hiệu Longines màu vàng; 01 Chứng minh nhân dân; 01 Giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc H và số tiền 3.800.000 đồng, quá trình điều tra xác định là tài sản cá nhân của Nguyễn Ngọc H, không liên quan đến hành vi phạm tội. Chuyển Tòa án xem xét, xử lý.

Về dân sự:

Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho chị Ngô Phương A 01 chiếc điện thoại Iphone 7 plus màu hồng. Chị Phương A đã nhận lại tài sản, không đề nghị gì về dân sự và đề nghị xử lý Nguyễn Ngọc H theo quy định của pháp luật.

Chị Phạm Ngọc T không yêu cầu Nguyễn Ngọc H phải bồi thường và đề nghị xử lý bị can theo quy định của pháp luật.

Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho chị Dương Thị H 01 xe Honda Wave α màu xanh, BKS: 89L1-184.67 cùng đăng ký xe. Chị H đã nhận lại tài sản và không đề nghị gì về dân sự.

Anh Trần Minh T và chị Ngô Thị Y không yêu cầu gì về việc Cơ quan CSĐT-Công an quận Long Biên đã trao trả chiếc xe máy BKS: 89L1-184.67 cho chị Dương Thị H.

Tại bản cáo trạng số: 194/CT-VKS ngày 14/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố đối với bị cáo Nguyễn Ngọc H về tội “ Trộm cắp Tài sản” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích đánh giá nội dung vụ án cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Ngọc H theo: điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự về tội danh trộm cắp tài sản và áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm g ( phạm tội nhiều lần) khoản 1 Điều 52, Điều 47 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo, áp dụng điều 38 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Đề nghị xử phạt cụ thể như sau:

Xử phạt bị cáo H mức án từ: 04( Bốn) năm đến 04( Bốn) năm 06( Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt: 01/3/2021. Về tang vật đã thu: 01 chiếc đồng hồ nhãn hiệu Longines màu vàng, 01 Điện thoại Realme C2, 01 chứng minh thư nhân dân và 01 bằng lái xe mang tên Nguyễn Ngọc H trả lại cho bị cáo. Số tiền 3.800.000 đ ( Ba triệu tám trăm nghìn đồng ) đang tạm giữ, buộc bị cáo truy nộp ngân sách 3.000.000đ ( ba triệu đồng) trả lại cho bị cáo: 800.000đ( tám trăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ 200.000đ ( hai trăm nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, tính từ ngaỳ tuyên án.

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa bị cáo, các bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận nội dung vụ án cũng như cách thức thực hiện hành vi phạm tội của mình, những nội dung khai nhận này xét thấy phù hợp với lời khai trước đây cũng như biên bản nhận dạng giữa bị cáo và người làm chứng là các bảo vệ tại Siêu thị Aeon, hình ảnh ca mê ra, các ảnh chụp trên ca mê ra, biên bản thực nghiệm điều tra, sơ đồ hiện trường thể hiện vị trí tài sản của những bị hại cất để trong túi xách hoặc nơi kiểm soát, và vị trí bị cáo H đã quan sát, theo dõi, thực hiện hành vi lén lút dịch chuyển tài sản cũng như lời khai về đặc điểm 02 chiếc điện thoại di động của các bị hại đã bị chiếm đoạt. Bị cáo thực hiện 02 vụ trộm cắp, trong đó ngày 23/02/2021 bị cáo thực hiện 01 vụ trộm cắp và đã bán được số tiền 03 triệu đồng, sử dụng hết, ngày 01/3/2021 bị cáo đã thực hiện 01 vụ trộm cắp và bắt quả tang khi đang cất dấu trong người của bị cáo trước khi ra bãi lấy xe nhằm tâu thoát. Như vậy giá trị tài sản đã qua bản kết luận định giá số 64/KL-HĐ ngày 11/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 128 GB màu trắng đã qua sử dụng và sim điện thoại trị giá 23.097.700 đồng trong vụ ngày 01/3/2021 và Tại bản Kết luận định giá tài sản số 57/KL-HĐĐGTS ngày 02/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên, kết luận: 01 điện thoại Iphone 7 plus màu hồng đã qua sử dụng và sim điện thoại, trị giá: 4.200.000 đồng trong vụ trộm ngày 23/02/2021. Tổng trị giá là: 27.297.700 đồng.

Hành vi này của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trong vụ án này bị cáo lợi dụng thường xuyên chỗ đông người, nhất là khu vực có nhiều phụ nữ tập trung mua bán hàng hóa không để ý nhằm lén lút dịch chuyển tài sản, đây là thủ đoạn chính của bị cáo để xâm hại quan hệ sở hữu của chủ sở hữu được pháp luật bảo vệ, bị cáo trong vài ngày liên tiếp gây ra hai vụ trộm cắp, trong đó vụ thứ nhất tài sản không thu hồi được, vụ thứ hai ngày 01/3/2021 tài sản thu hồi do bị bắt quả tang, mặt khác bị cáo là người có nhân thân rất xấu, mới chấp hành xong hình phạt ngày 29/4/2020 thì ngày 23/02/2021 lại phạm tội, lần này bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Cần có hình phạt nghiêm khắc với bị cáo có 09 tiền án, các bản án hầu hết là phạm tội trộm cắp tài sản.

Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo đã phạm tội trộm cắp tài sản như bản cáo trạng đã truy tố tại điểm g (trường hợp tái phạm nguy hiểm) khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo sử dụng phương tiện là chiếc xe máy có BKS: 89 L1- 184.67 là chiếc xe loại Hon da Wave an pha màu xanh, chiếc xe này của chị Dương Thị H đứng tên đăng ký xe, chị H đã bị mất trộm, nguồn gốc xe này do bị cáo H khai mượn của vợ chồng anh chị Ngô Thị Y và Trần Minh T, do chị Y cho một nguời là thợ xây vay tiền nên để lại chiếc xe này làm tin, anh chị T không biết người này ở đâu, cơ quan điều tra cũng đã trao trả xe cho chị H, chị không có yêu cầu gì nên không xét.

Về tang vật tài sản đã thu: Xét số tiền 3.800.000 đồng là tài sản của bị cáo nên tạm giữ để sung quỹ nhà nước bằng hình thức phạt tiền 05( Năm) triệu đồng, buộc bị cáo truy thu số tiền do bán điện thoại mà bị cáo hưởng lợi: 3( Ba) triệu đồng sung quỹ nhà nước, còn chiếc đồng hồ, điện thoại không liên quan trả lại cho bị cáo cùng các giấy tờ như chứng minh thư nhân dân, bằng lái xe mang tên bị cáo trả lại.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ : Điểm g Khoản 2, khoản 5 điều 173, điểm s khoản 1 điều 51 và điểm g khoản 2 Điều 52, Điều 47, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 đối với Bị cáo Nguyễn Ngọc H.

Căn cứ: Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 quy định mức án phí, lệ phí.

1/ Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Ngọc H đã phạm tội: “ Trộm cắp tài sản”

2/ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc H: 05( Năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/3/2021. Truy thu sung quỹ tiền thu lời bất chính của bị cáo: 03( Ba) triệu đồng. Phạt tiền đối với bị cáo: 05( Năm) triệu đồng.

3/ Xử lý tang vật:

+ Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/7/2021 tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Long Biên, TP Hà Nội: 01 chiếc đồng hồ có tên Longines và 01 chiếc điện thoại di động tên Realme C2, 01 chứng minh thư nhân dân, 01 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc H. Trả lại cho bị cáo các đồ vật này.

+ Tạm giữ để thu sung quỹ số tiền: 3.800.000đ ( Ba triệu tám trăm nghìn đồng) theo Giấy nộp tiền vào Tài khoản số: 3949.0.1048583.00000 ngày 14/7/2021 tại Kho bạc nhà nước Long Biên, là tài sản của bị cáo. Bị cáo phải nộp tiếp số tiền: 1.200.000đ( Một triệu hai trăm nghìn đồng).

4/ Án phí và Quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Ngọc H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có hạn 15 ngày kháng cáo kể từ ngày nhận bản án hợp lệ. Người có quyền lợi và Nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo về những nội dung có liên quan đến mình trong vụ án , hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 213/2021/HSST ngày 23/09/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:213/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về