Bản án 213/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 213/2018/HS-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 216 /2018/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 242/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Lưu Văn H, (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 5/02/1990 tại Lạng Sơn; Nơi cư trú: Thôn K, xã Q, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn H (đã chết) và bà Luân Thị T, sinh năm 1968; có vợ là Hứa Thị P, sinh năm 1989 và 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự, ngày 26/02/2011 bị Công an huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Gây rối trật tự công cộng với hình thức phạt tiền; ngày 24/03/2011 bị cáo đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp phạt. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 4/7/2018 cho đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Anh T, (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 4/12/1994 tại Lạng Sơn; Nơi cư trú: Đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K (đã chết) và bà Nông Thị T, sinh năm 1966; có vợ là Nguyễn Thị Khánh H, sinh năm 1997; con: Chưa có; tiền án: 01 tiền án. Ngày 23/01/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản (tại bản án số 07/2017/HSST ngày 23/01/2017), đã chấp hành xong hình phạt chính từ ngày 27/02/2017, hiện chưa được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 4/7/2018 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Lương Tuấn V, sinh ngày 30/4/1990. Địa chỉ: Đường T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Hứa Thị P, sinh năm 1989. Địa chỉ: Thôn K, xã Q, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Hoàng Xuân T, sinh năm 1985. Địa chỉ: Khu M, thị trấn L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

2. Anh Nông Thế A, sinh năm 1992. Địa chỉ: đường L, phường V, thành phố L; có mặt;

3. Anh Vi Văn L, sinh năm 1985. Địa chỉ: đường L, phường V, thành phố L; có mặt.

4. Anh La Vũ D, sinh năm 1994. Địa chỉ: Trung tâm giáo dục nghề C, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 13/5/2018, Lương Tuấn V và Lưu Văn H cùng nhóm bạn của mình đến chơi tại quán bar K trên đường L, khu đô thị P, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Nhóm của Lương Tuấn V ngồi ở bàn tầng 1, nhóm của Lưu Văn H và La Vũ D ngồi ở bàn tầng 2. Lương Tuấn V và bạn trong nhóm có lên tầng 2 giao lưu với nhóm của Lưu Văn H, Lương Tuấn V và một nam thanh niên tên H1 (không rõ họ, tuổi, địa chỉ) ngồi cùng bàn với nhóm Lưu Văn H có lời qua tiếng lại dẫn đến xô xát, Lương Tuấn V bỏ chạy thì La Vũ D và một số người khác đuổi theo ra khỏi quán.

Lưu Văn H cũng chạy xuống tầng 1 đuổi theo, đồng thời gọi cho Nguyễn Anh T (là người quen của Lưu Văn H và La Vũ D) đi tìm đánh Lương Tuấn V thì Nguyễn Anh T đồng ý. Lưu Văn H điều khiển xe mô tô Honda Ware RSX màu đen BKS 12X1-057.04 đến đón Nguyễn Anh T thì thấy Nguyễn Anh T chờ sẵn và cầm 02 con dao tra cán gỗ, mỗi dao dài khoảng 01m, chuôi gỗ màu vàng, phần lưỡi dao hơi cong. H1 đuổi theo Lương Tuấn V ra đến cửa quán bar thì dừng lại, La Vũ D cũng đuổi tiếp đến quán Karaoke P thì dừng lại rồi quay lại chỗ H1, những người khác tiếp tục đuổi theo. La Vũ D quay lại thấy H1 chảy máu thì gọi taxi đưa H1 vào bệnh viện sơ cứu vết thương, do vội nên khi nhìn thấy Lưu Văn H chở Nguyễn Anh T đến quán bar K La Vũ D không nói gì.

Khoảng 01 giờ ngày 14/5/2018 Lương Tuấn V bỏ chạy về phía nhà của bạn là Nông Thế A (hiện sống cùng chú là Vi Văn L, cùng trú tại đường L, phường V, thành phố L), Lương Tuấn V nhờ Nông Thế A gọi bạn đến đón rồi chạy quay lại quán bar K thì thấy có nhiều người đứng trước quán nên quay lại đường K định đến nhà Nông Thế A thì thấy khoảng 7, 8 thanh niên đi trên 04 xe mô tô đến đáp gạch đá vào nhà Nông Thế A (làm vỡ 01 mặt bàn uống nước ở phía ngoài sân nhà). Thấy vậy, Lương Tuấn V nhặt 01 gậy gỗ dài khoảng 01m ở công trình xây dựng gần đó rồi rẽ phải vào đường L, khu vực sân bóng P. Tại đây, Lương Tuấn V gặp Lưu Văn H và Nguyễn Anh T. Nguyễn Anh T đã có hành vi dùng 02 dao nhọn chuẩn bị sẵn chém nhiều nhát vào người của Lương Tuấn V; Lưu Văn H dùng miếng ván gỗ đập 01 phát vào gáy của Lương Tuấn V. Thấy Lương Tuấn V không chống cự, Lưu Văn H chở Nguyễn Anh T ra về; sau đó Lương Tuấn V tỉnh rồi tự đi đến nhà Nông Thế A nhờ đưa đi Bệnh viện cấp cứu. 

La Vũ D sau khi đưa H1 vào viện sơ cứu vết thương thì về nhà, nhận được tin Công an đang truy tìm người chém nhau ở quán bar K nên thông báo và bảo Nguyễn Anh T đi trốn đi. Khoảng 02 giờ ngày 14/5/2018 La Vũ D, Nguyễn Anh T và Lưu Văn H thuê taxi bỏ trốn đến thành phố B. Đến ngày 4/7/2018, Công an thành phố Lạng Sơn đã thi hành Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Anh T và Lưu Văn H để điều tra làm rõ hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 240/2018/TgT ngày 17/8/2108 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Lạng Sơn, căn cứ hồ sơ bệnh án, kết quả khám giám định và Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ y tế kết luận tỷ lệ thương tích của Lương Tuấn V: Sẹo vùng trán phía trên đầu trong cung mày hai bên, sẹo vùng đuôi cung mày phải, tỷ lệ: 11%; Cụt đốt 3 ngón III bàn tay phải, tỷ lệ: 02%; Sẹo vùng bụng ngang rốn bên trái, sẹo 1/3 dưới cánh tay phải, sẹo sây xước cẳng tay phải, sẹo đốt 2 ngón IV tay phải, sẹo 1/3 giữa mặt sau cánh tay trái, sẹo phẳng 1/3 trên mặt ngoài cẳng tay trái, sẹo phẳng cùng gối phải và sẹo phẳng vùng gối trái, tỷ lệ: 06%; Sẹo đốt gần ngón II tay trái xuống đến lòng bàn tay, tỷ lệ: 03%; Đứt gân gấp ngón II bàn tay trái, ảnh hưởng ít đến động tác gấp ngón tay, tỷ lệ: 03%. Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể cộng lùi của Lương Tuấn V là 23%.

Cáo trạng số 210/CT-VKS ngày 6/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo Lưu Văn H và Nguyễn Anh T về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm đ khoản 2, Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Lưu Văn H và Nguyễn Anh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, cụ thể:

Bị cáo Lưu Văn H khai nhận: Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 14/5/2018, tại khu vực đường L, khu đô thị P, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo chở Nguyễn Anh T đi tìm đánh Lương Tuấn V. Khi tìm thấy Lương Tuấn V, bị cáo điều khiển xe máy đuổi theo Lương Tuấn V đến trước cửa nhà số B đường L, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn thì Lương Tuấn V bị ngã, bị cáo xuống xe nhặt 01 tấm ván gỗ ở một ngôi nhà đang xây gần đó đập 01 phát người của Lương Tuấn V. Sau đó, bị cáo chở Nguyễn Anh T đến hiệu cầm đồ của Lý Tuấn Lực tại đường K, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng để cất nhờ 02 con dao rồi chở Nguyễn Anh T về nhà, còn bị cáo về quán C đường B, phường V, thành phố L để cất xe.

Bị cáo Nguyễn Anh T khai nhận: Hồi 01 giờ 00 phút ngày 14/5/2018 tại khu vực đường L, khu đô thị P, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Lưu Văn H chở bị cáo đi tìm đánh Lương Tuấn V. Khi tìm thấy Lương Tuấn V, bị cáo đã sử dụng dao chém 01 Lương Tuấn V, tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể cộng lùi của anh Lương Tuấn V là 23%.

Tại phiên tòa, bị hại anh Lương Tuấn V trình bày: Tối ngày 13/5/2018 tại quán bar K trên đường L, khu đô thị P, phường V, thành phố L, tôi bị Lưu Văn H và Nguyễn Anh T đã đuổi đánh và chém tôi gây thương tích; tôi không quen biết và không có mâu thuẫn gì với các bị cáo. Sau khi vụ việc xảy ra, ngày 21/5/2018 gia đình Nguyễn Anh T đã thanh toán 10.000.000đ (mười triệu đồng) tiền viện phí và 23/5/2018 đã bồi thường 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) tiền mặt cho tôi. Gia đình anh Lưu Văn H đã đến gia đình tôi xin lỗi, hỏi thăm sức khỏe và bồi thường khắc phục hậu quả đã gây ra cho tôi với số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng). Anh đã có đơn và tại phiên Tòa xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Lưu Văn H và Nguyễn Anh T, anh không yêu cầu bồi thường hay đề nghị gì thêm. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên tòa người làm chứng là anh La Vũ D trình bày anh có mặt tại quán bar K trên đường L, khu đô thị P, phường V, thành phố L vào tối ngày 13/5/2018 và có chứng kiến vụ lộn xộn, xích mích trong quán, anh không được chứng kiến sự việc chém nhau bị thương như thế nào vì không tham gia và không có liên quan gì. Anh Nông Thế A và anh Vi Văn L không chứng kiến các bị cáo gây thương tích cho anh Nguyễn Anh T, nghe tiếng ồn ào anh Vi Văn L ra mở cổng để xem xe ô tô của anh có bị xước không thì thấy Nguyễn Anh T trên người nhiều vết thương tích, tay chảy máu. Anh Nông Thế A đã gọi xe taxi cho anh Nguyễn Anh T vào Bệnh viện cấp cứu.

Tại phiên toà, trong phần tranh luận, lời luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như trong bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Lưu Văn H và Nguyễn Anh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2, Điều 134; Điều 17; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T mức án từ 24 đến 30 tháng tù.

Áp dụng điểm đ khoản 2, Điều 134; Điều 17; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Lưu Văn H mức án từ 24 đến 30 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ Quan điều tra đã thu giữ 01 chiếc xe mô tô Honda Ware, biển kiểm soát: 12X1- 057.04 là chiếc xe mô tô Lưu Văn H chở Nguyễn Anh T đi gây án vào ngày 14/5/2018, chiếc xe trên xác định là của chị Hứa Thị P (vợ của Lưu Văn H), sinh năm 1989, trú tại Thôn K, xã Q, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, đề nghị trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu hợp pháp theo quy định của pháp luật. Đối với các vật chứng 01 mẩu gạch chỉ, 01 mẩu gạch lát vỉa hè, 01 mẩu thủy tinh màu đen và 01 mẩu thủy tinh màu trắng không có giá trị sử dụng đề nghị tịch thu để tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

Về bồi thường dân sự: Gia đình bị cáo Nguyễn Anh T đã thanh toán chi phí khám chữa bệnh và chủ động bồi thường cho bị hại 40.000.000 đồng; gia đình bị cáo Lưu Văn H chủ động bồi thường cho bị hại 20.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị hại Lương Tuấn V xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho 02 bị cáo và không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Các bị cáo Lưu Văn H và Nguyễn Anh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối hận về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Xét thấy lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với biên bản xác định hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ hành vi các bị cáo đã thực hiện và kết luận giám định pháp y về thương tích, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Lưu Văn H và Nguyễn Anh T phạm tội "Cố ý gây thương tích" theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo Lưu Văn H và Nguyễn Anh T là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy rằng hành vi của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Trong vụ án này, các bị cáo đồng phạm giản đơn, bị cáo Lưu Văn H là người khởi sướng, bị cáo Nguyễn Anh T là người bị rủ rê nhưng thực hiện vai trò tích cực.

[4] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên, để có mức án thỏa đáng còn phải xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố khác có liên quan của bị cáo, trên cơ sở xem xét lời đề nghị, luận tội của Viện kiểm sát.

[5] Xét về nhân thân: Các bị cáo là người có nhân thân xấu, bị cáo Lưu Văn H, ngày 26/02/2011 bị Công an huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ra Quyết định xử phạt hành chính (đã được xóa). Đối với bị cáo Nguyễn Anh T, ngày 23/01/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 07 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản, đã chấp hành xong hình phạt.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lưu Văn H và Nguyễn Anh T đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, Gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại và bị hại có đơn, tại phiên tòa xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho 2 bị cáo nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Anh T đã có 01 tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm nên bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lưu Văn H không có tình tiết tăng nặng.

[8] Từ những phân tích như trên Hội đồng xét xử thấy rằng lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện và về mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[9] Đối với bồi thường dân sự: Gia đình bị cáo Nguyễn Anh T và Lưu Văn H đã chủ động bồi thường cho bị hại; bị hại Lương Tuấn V tại phiên tòa không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét trách nhiệm bồi thường dân sự đối với bị cáo Nguyễn Anh T và Lưu Văn H.

[10] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã thu thập vật chứng gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Ware, biển kiểm soát: 12X1- 057.04; 01 mẩu gạch chỉ; 01 mẩu gạch lát vỉa hè; 01 mẩu thủy tinh màu đen và 01 mẩu thủy tinh màu trắng. Xác định chị Hứa Thị P là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên nên trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp. Đối với các vật chứng 01 mẩu gạch chỉ, 01 mẩu gạch lát vỉa hè, 01 mẩu thủy tinh màu đen và 01 mẩu thủy tinh màu trắng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[11] Một số đối tượng có hành vi đáp gạch đá làm hư hỏng bàn uống nước ngoài sân nhà anh Vi Văn L ngày 14/5/2018 trị giá 305.000đ, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[12] Về án phí: Các bị cáo Lưu Văn H và Nguyễn Anh T là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

[13] Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 17; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lưu Văn H và Nguyễn Anh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 17; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lưu Văn H 02 (hai) năm tù giam; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam 04/7/2018.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 17; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 02 (hai) năm tù giam; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam 04/7/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

- Trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Ware, màu sơn đen đỏ trắng biển kiểm soát: 12X1- 057.04 cũ, đã qua sử dụng cho chị Hứa Thị P là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu để tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng sau: 01 mẩu gạch chỉ, 01 mẩu gạch lát vỉa hè, 01 mẩu thủy tinh màu đen và 01 mẩu thủy tinh màu trắng.

 (Các vật chứng nói trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, có đặc điểm như được mô tả trong biên bản giao, nhận vật chứng ngày 6/11/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Buộc các bị cáo Lưu Văn H và Nguyễn Anh T mỗi người phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 213/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:213/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về