Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 15/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 14/2021/QĐST- HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà LTM, sinh năm 1977; thường trú: Đội 13, thôn LH, xã QB huyện CM, Thành phố HN; trú tại: 19/1/9 khu phố ĐA2, phường BH, thành phố TA, tỉnh BD, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Ông TVH, sinh năm 1974; thường trú: Đội 13, thôn LH, xã QB huyện CM, Thành phố HN; trú tại: 19/1/9 khu phố ĐA2, phường BH, thành phố TA, tỉnh BD, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 16/12/2020, bản tự khai ngày 08/01/2021 nguyên đơn bà LTM trình bày:

Bà LTM và ông TVH tự nguyện tìm hiểu, tiến đến hôn nhân có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) theo giấy chứng nhận kết hôn số 15 ngày 15/9/1998. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, ông H không lo làm ăn không có trách nhiệm với vợ con, thường chơi bời, cờ bạc, không chung thủy..., bà M và ông H sống ly thân từ tháng 12/2019 đến nay. Nay bà LTM xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với ông TVH.

Về con chung: Có 02 con chung tên TTA, sinh ngày 27/10/1999 và TTBN, sinh ngày 08/8/2011. Bà LTM yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung TTBN, sinh ngày 08/8/2011, theo đơn khởi kiện bà M yêu cầu ông TVH cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, tuy nhiên theo bản tự khai ngày 08/01/2021 bà M không yêu cầu ông M phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông TVH không có văn bản trình bày ý kiến và không tham gia tố tụng.

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án: Thẩm phán, thư ký được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông TVH có đăng ký tạm trú tại địa chỉ 19/1/9 khu phố Đồng An 2, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 36; Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn, yêu cầu được nuôi con chung, nguyên đơn không yêu cầu giải quyết về tài sản chung; nợ chung. Như vậy quan hệ tranh chấp trong vụ án này là ly hôn, tranh chấp nuôi con.

[3] Về việc xét xử vắng mặt: Nguyên đơn- bà LTM có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn – ông TVH đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự

[4] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà LTM và ông TVH có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội) theo giấy chứng nhận kết hôn số 15 ngày 15/9/1998, do đó quan hệ hôn nhân của bà Mai và ông Hưng là hôn nhân hợp pháp.

Bà Lương Thị Mai khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông TVH với lý do: Vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, ông H không lo làm ăn không có trách nhiệm với vợ con, thường chơi bời, cờ bạc, không chung thủy..., bà M và ông H sống ly thân từ tháng 12/2019 đến nay.

Quá trình tố tụng Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà M và ông H tại nơi cư trú của vợ chồng đều xác định tình trạng hôn nhân của bà bà M và ông H, tuy nhiên địa phương không rõ, ông H không có văn bản trình bày ý kiến, không tham gia tố tụng xem như từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình. Xét thấy, quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững dựa trên tình cảm của vợ chồng, sống có trách nhiệm, thương yêu, chăm sóc, quan tâm lẫn nhau. Vợ chồng bà M và ông H vì bất đồng quan điểm sống nên cuộc sống có nhiều mâu thuẫn. Từ khi bà Mai nộp đơn khởi kiện đến nay tình trạng hôn nhân của bà M và ông H vẫn không cải thiện, không ai quan tâm đến ai, mạnh ai nấy sống, đây là lần thứ 2 bà M nộp đơn ly hôn, tranh chấp về nuôi con nên có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà M và ông H không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc. Do tình trạng hôn nhân của bà M và ông H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M về việc ly hôn với ông H.

Về con chung: Bà M và ông H có 02 con chung tên TTA, sinh ngày 27/10/1999 và TTBN, sinh ngày 08/8/2011. Bà LTM yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung TTBN, sinh ngày 08/8/2011. Ông H không có văn bản trình bày ý kiến. Quá trình tố tụng, Tòa án lấy lời khai cháu TTBN, cháu Ngân xác định có nguyện vọng sống cùng với mẹ. Xét thấy, từ khi vợ chồng mâu thuẫn, bà M là người chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, có trách nhiệm với con chung nên con chung phát triển bình thường, khỏe mạnh, học hành đầy đủ. Do vậy, cần tiếp tục giao cháu N cho bà Mai trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng là đảm bảo quyền lợi mọi mặt của cháu N, phù hợp với nguyện vọng của cháu N nên chấp nhận yêu cầu này của bà M. Bà M không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con nên ông H không phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với con chung TTA, sinh ngày 27/10/1999 đã trên 18 tuổi nên không yêu cầu giải quyết Về tài sản chung; nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp [6] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Điều 51, Điều 56, Điều 57 và Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà LTM về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” với ông TVH - Về quan hệ hôn nhân: Bà LTM được ly hôn với ông TVH.

- Về con chung: Giao con chung TTBN, sinh ngày 08/8/2011 cho bà LTM trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

- Về cấp dưỡng: Ông TVH không phải cấp dưỡng nuôi con.

Đối với con chung TTA, sinh ngày 27/10/1999 đã trên 18 tuổi nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí sơ thẩm:

Bà LTM phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0053470 ngày 04/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về