Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 14/09/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 14 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 173/2020/TLST - HNGĐ ngày 20/7/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2021/QĐST- HNGĐ ngày 13/8/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2021/QĐST-HNGĐ ngày 30/8/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06/9/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Cà Thị H;

Địa chỉ: Bản X, xã N, huyện T, tỉnh Sơn La. (Có mặt tại phiên tòa).

- Bị đơn: Anh Lò Văn T;

Địa chỉ: Bản N, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

(Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, tại phiên tòa và và các tài liệu trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Cà Thị H trình bày:

Chị Cà Thị H và anh Lò Văn T kết hôn từ ngày 12/11/2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh Lò Văn T nghiện ma túy, hay uống rượu , bỏ bê vợ con. Chị Cà Thị H đã cố gắng hàn gắn nhưng mâu thuẫn kéo dài, ngày càng trầm trọng. Chị Cà Thị H và anh Lò Văn T đã sống ly thân, không quan tâm đến nhau. Chị Cà Thị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị được ly hôn với anh Lò Văn T.

Về con chung: Chị Cà Thị H và anh Lò Văn T có 01 con chung là cháu Lò Lương B, sinh ngày 13/5/2013.

Chị Cà Thị H có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lò Lương B.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Cà Thị H không yêu cầu anh Lò Văn T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản riêng: Không có.

Về nợ chung: Chị Cà Thị H cam đoan không có nợ chung.

Trong bản tự khai, tại phiên hòa giải và các tài liệu trong hồ sơ vụ án, bị đơn anh Lò Văn T trình bày:

Chị Cà Thị H và anh Lò Văn T kết hôn từ ngày 12/11/2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, mâu thuẫn kéo dài, ngày càng trầm trọng. Hiện nay chị Cà Thị H và anh Lò Văn T đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Đến nay chị Cà Thị H yêu cầu ly hôn, anh Lò Văn T nhất trí.

Về con chung: Anh Lò Văn T và chị Cà Thị H có 01 con chung là cháu Lò Lương B, sinh ngày 13/5/2013.

Anh Lò Văn T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dạy và chăm sóc, giáo dục cháu Lò Lương B.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Lò Văn T không yêu cầu chị Cà Thị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản riêng: Không có.

Về nợ chung: Anh Lò Văn T cam đoan không có nợ chung.

Các đương sự không cung cấp thêm chứng cứ cho Tòa án, không có ý kiến gì về các chứng cứ do các đương sự khác xuất trình và không yêu cầu triệu tập đương sự khác, người tham gia tố tụng khác.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Cà Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Kể từ khi Tòa án tiến hành thụ lý vụ án cho đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán đã thực hiện các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử tham gia đúng thành phần trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, các trình tự của phiên tòa diễn ra theo đúng quy định của pháp luật.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70; Điều 71; Điều 209; Điều 211 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật các quy định tại Điều 70; Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đề nghị áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố Tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016:

Xử cho chị Cà Thị H được ly hôn anh Lò Văn T, giao cháu Lò Lương B, sinh ngày 13/5/2013 cho chị Cà Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Lò Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung;

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về tài sản riêng: Không có; Về nợ chung: Chị Cà Thị H và anh Lò Văn T cam đoan không có nợ chung.

Về án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho chị Cà Thị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Cà Thị H yêu cầu ly hôn với bị đơn anh Lò Văn T có địa chỉ tại bản N, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn anh Lò Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ ba vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Cà Thị H và anh Lò Văn T kết hôn với nhau từ ngày 12/11/2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc. Quá trình chung sống không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do do vợ chồng bất đồng trong lối sống, sinh hoạt, anh Lò Văn T nghiện chất ma túy, do đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, không tìm được tiếng nói chung, mâu thuẫn kéo dài. Nay chị Cà Thị H và anh Lò Văn T đều xác tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài nên chị Cà Thị H yêu cầu ly hôn anh Lò Văn T, anh Lò Văn T nhất trí.

Trên cơ sở xem xét các chứng cứ, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa cho thấy cuộc sống chung vợ chồng của chị Cà Thị H và anh Lò Văn T không hạnh phúc, không tìm được tiếng nói chung, mâu thuẫn kéo dài, hiện chị Cà Thị H và anh Lò Văn T đã sống ly thân, không còn liên lạc, quan tâm đến nhau.

Từ các căn cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn của vợ chồng chị Cà Thị H và anh Lò Văn T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Cà Thị H, xử cho chị Cà Thị H được ly hôn anh Lò Văn T.

[3] Về con chung: Anh Lò Văn T và chị Cà Thị H có 01 con chung là cháu Lò Lương B, sinh ngày 13/5/2013.

Nay ly hôn chị Cà Thị H và anh Lò Văn T đều có nguyện vọng trực tiếp nuôi dạy và chăm sóc cháu Lò Lương B, sinh ngày 13/5/2013.

Tại Biên bản ghi ý kiến cháu Lò Lương B ghi nhận: nếu bố mẹ ly hôn, cháu Lò Lương B có nguyện vọng được ở với mẹ.

Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu đã yêu cầu chị Cà Thị H, anh Lò Văn T cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh về nơi cư trú, công việc và thu nhập hiện tại, tuy nhiên anh Lò Văn T không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh.

Tại Đơn trình bày điều kiện nuôi con ngày 04/8/2021 của chị Cà Thị H, có xác nhận của UBND xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xác nhận: Sau khi ly thân với anh Lò Văn T, chị Cà Thị H về cư trú ổn định tại nhà bố mẹ đẻ ở bản X, xã N, huyện T, tỉnh Sơn La. Chị Cà Thị H có nhân thân tốt, hiện nay chị Cà Thị H làm nghề buôn bán, bán hàng thuê, thu nhập hàng tháng khoảng 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Tại Biên bản xác minh ngày 04/8/2021 tại UBND xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xác định: Anh Lò Văn T có nhân thân xấu, ngày 29/4/2017 bị Chủ tịch UBND xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời gian 03 tháng, kể từ ngày 29/4/2017 đến ngày 29/7/2017.

Xét thấy chị Cà Thị H có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt, có công việc và thu nhập ổn định; anh Lò Văn T có nhân thân xấu, có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ý kiến, nguyện vọng của cháu Lò Lương B là được ở với mẹ.

Từ các căn cứ nêu trên, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung, cần giao cháu Lò Lương B, sinh ngày 13/5/2013 cho chị Cà Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là có căn cứ, đúng quy định.

Chấp nhận việc chị Cà Thị H không yêu cầu anh Lò Văn T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về tài sản riêng: Không có.

[6] Về nợ chung: Chị Cà Thị H và anh Lò Văn T cam đoan không có nợ chung.

[7] Về án phí: Chị Cà Thị H là người dân tộc thiểu số sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, do đó cần miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho chị Cà Thị H, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

[1] Xử cho chị Cà Thị H được ly hôn anh Lò Văn T.

[2] Về con chung: Giao cháu Lò Lương B, sinh ngày 13/5/2013 cho chị Cà Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này, không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Lò Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung vợ chồng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về tài sản riêng: Không có.

6] Về nợ chung: Chị Cà Thị H và anh Lò Văn T cam đoan không có nợ chung.

[7] Về án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho chị Cà Thị H.

Trả lại cho chị Cà Thị H số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002039 ngày 20/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

[8] Về quyền kháng cáo: Chị Cà Thị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Anh Lò Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 14/09/2021 về ly hôn

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về