Bản án 21/2020/HSST ngày 16/04/2020 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 21/2020/HSST NGÀY 16/04/2020 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 16 tháng 4 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số 30/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị V, sinh năm 1993;

HKTT: thôn Thịnh Cầu, thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đăng Đằng và bà Nguyễn Thị Quyển; có chồng là Nguyễn Thế Thực và có 01 con sinh ngày 27/02/2020; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 20/02/2020 đến ngày 21/02/2020, hiện tại ngoại. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong tháng 12/2019, Nguyễn Thị V mua của một người phụ nữ không quen biết tại khu vực trước cửa bệnh viện Thiện Nhân thuộc thôn Đỉnh, TT Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh 01 tờ giấy khám sức khỏe, khổ giấy A3 đã điền đầy đủ nội dung khám, đóng dấu tròn màu đỏ có nội dung “Q.Đ.N.D.V.N. Bệnh viện 110 PHÒNG KHÁM BỆNH”, dấu chữ nhật màu đỏ “ĐỦ SỨC KHỎE HỌC TẬP VÀ CÔNG TÁC”; dấu chức danh màu xanh “BSCKI: Nguyễn Văn Cường” với giá 100.000 đồng nhưng chưa viết thông tin người khám với mục đích để đi xin việc làm. Nhưng do không có nhu cầu sử dụng, V đã đăng trên mạng xã hội Facebook rao bán giấy khám sức khỏe mà V đã mua. Khoảng 13 giờ, ngày 19/02/2020, có Lò Thị Pun gọi điện thoại hỏi mua giấy khám sức khỏe của V, V đồng ý và hẹn Pun ngày 20/02/2020 đến khu vực đèn xanh, đèn đỏ thuộc thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh để mua bán. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 20/02/2020, V mang theo 01 tờ giấy khám sức khỏe mua trước đó điều khiển xe mô tô Honda Vision BKS 99 E1 – 385.49 đến chỗ hẹn gặp Pun. V lấy tờ giấy khám sức khỏe từ trong cốp xe ra và ghi thông tin cá nhân của Pun vào giấy khám sức khỏe có nội dung “Lò Thị Pun; Nữ; Tuổi 22; 051075144; 3/8/2017; Thuận Châu, Sơn La; xã Trường Bôm, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Làm việc; Pun; Lò Thị Pun”. Sau khi viết xong V đưa cho Pun tờ giấy khám sức khỏe vừa viết trên, còn Pun đưa cho V 120.000 đồng. Đúng lúc này thì lực lượng Công an bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng gồm 01 tờ giấy khám sức khỏe nêu trên và số tiền 120.000đ.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã lấy mẫu dấu, chữ ký của người có liên quan của Bệnh viện Quân Y 110 và mẫu chữ viết của Nguyễn Thị V trưng cầu giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh.

Tại Bản kết luận giám định tài liệu số 25/PC09 - KLGĐTL ngày 21/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

+ Chữ viết có nội dung “Lò Thị Pun”, “22”, “051075144”, “3/8/2017”, “Thuận Châu – Sơn La”, “ xã Trường Bôm – Huyện Thuận Châu – Tỉnh Sơn La”, “ Làm việc” và “ 20…2…20”, “Pun”, “Lò Thị Pun” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A) so với chữ viết của Nguyễn Thị V trên tài liệu mẫu so sánh ( ký hiệu M1, M2) là do cùng một người viết ra.

+ Không đủ cơ sở kết luận chữ ký tại mục “Họ tên, chữ ký của bác sỹ” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A) so với chữ ký của Bác sỹ Nguyễn Văn Cường và chữ ký của Nguyễn Thị V trên tài liệu mẫu so sánh ( ký hiệu M1, M2, M6) có phải do cùng một người ký ra không.

+ Hình dấu tròn màu đỏ có nội dung “Q.Đ.N.D.V.N BỆNH VIỆN 110 PHÒNG KHÁM BỆNH” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A) so với hình dấu mẫu so sánh có nội dung “Q.Đ.N.D.V.N PHÒNG KHÁM BỆNH BỆNH VIỆN QUÂN Y 110” trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M3) không phải phải do cùng một con dấu đóng ra.

+ Hình dấu chữ nhật màu đỏ có nội dung “ĐỦ SỨC KHỎE HỌC TẬP VÀ CÔNG TÁC” trên tài liệu cần giám định ( ký hiệu A) so với hình dấu màu xanh có nội dung “ Đủ SK học tập, công tác” trên tài liệu mẫu so sánh ( ký hiệu M4) không phải do cùng một con dấu đóng ra.

+ Hình dấu chức danh màu xanh có nội dung “BSCKI: Nguyễn Văn Cường” trên tài liệu cần giám định ( ký hiệu A) so với hình dấu chức danh màu xanh có nội dung “ BSCKI Nguyễn Văn Cường” trên tài liệu mẫu so sánh ( ký hiệu M5) không phải do cùng một con dấu đóng ra.

+ Giấy khám sức khỏe khổ A3, tài liệu cần giám định (ký hiệu A) là giả.

Với nội dung trên, tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 26/QĐ- VKSQV ngày 13/3/2020 của VKSND huyện Quế Võ đã truy tố Nguyễn Thị V về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Quyết định truy tố đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội, sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đã đề nghị HĐXX tuyên bố Nguyễn Thị V phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, n, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 BLHS: Xử phạt Nguyễn Thị V từ 07 đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 14 đến 20 tháng. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 120.000đ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo V không tranh luận gì với đại diện VKSND huyện Quế Võ, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Khong tháng 12/2019, Nguyễn Thị V mua của một người phụ nữ không quen biết 01 tờ giấy khám sức khỏe của Bệnh viện quân y 110 được làm giả, đã điền đầy đủ nội dung khám và đóng dấu nhưng chưa viết thông tin người khám. Sau đó, chiều ngày 20/02/2020 V đã điền thêm thông tin cá nhân của Lò Thị Pun vào tờ giấy khám sức khỏe giả nêu trên rồi bán lại cho Pun với giá 120.000đ. Do đó, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, khi phạm tội V đang mang thai, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, n, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt và nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội, chỉ cần cải tạo tại địa phương cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo đang nuôi con nhỏ nên không áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với V.

Về vật chứng gồm: Số tiền 120.000đ là tiền do V phạm tội mà có nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Đối với tờ giấy khám sức khỏe giả do V bán cho Pun là chứng cứ chứng minh tội phạm nên cần được lưu theo hồ sơ vụ án.

Đi với chiếc xe mô tô Honda Vision BKS 99 E1- 385.49, quá trình điều tra xác định là của anh Nguyễn Văn Nhu cho V mượn để đi lại, anh Nhu không biết việc V sử dụng xe mô tô để đi bán giấy khám sức khỏe giả. Ngày 25/02/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Nhu là phù hợp.

Đi với Lò Thị Pun có hành vi mua giấy khám sức khoẻ của Nguyễn Thị V, Pun không biết đó là giấy khám sức khỏe giả, và Pun chưa sử dụng giấy khám sức khỏe đó. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ không xử lý mà nhắc nhở đối với Lò Thị Pun là phù hợp.

Đi với người phụ nữ bán giấy khám sức khỏe giả cho V, V không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ tiếp tục điều tra xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Quá trình điều tra, đại diện Bệnh viện Quân y 110 không yêu cầu V phải bồi thường gì đối với việc làm giả giấy khám sức khỏe của Bệnh viện nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Bị cáo V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị V phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, n, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Xử phạt Nguyễn Thị V 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 (mười bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo V cho UBND thị trấn Phố Mới, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về vật chứng: Lưu hồ sơ vụ án 01 tờ giấy khám sức khỏe, khổ giấy A3 do Nguyễn Thị V bán cho Lò Thị Pun ngày 20/02/2020. Tịch sung vào ngân sách nhà nước số tiền 120.000đ (một trăm hai mươi nghìn đồng). Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 16/3/2020 giữa Công an huyện Quế Võ với Chi cục THADS huyện Quế Võ. Về án phí: Bị cáo V phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

632
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2020/HSST ngày 16/04/2020 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:21/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về