Bản án 21/2019/HS-ST ngày 13/03/2019 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 13/03/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 13/3/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 03/2019/TLST-HS ngày16/1/2019. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2019 ngày 28 tháng 2 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Văn T - sinh năm 1972. Tên gọi khác: Không.

Nơi sinh: Thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Nơi ở và ĐKNKTT: Phố T, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 07/10. Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông Lương Văn C (đã chết) và bà Cao Thị S (đã chết).

Vợ Nguyễn Thị H - sinh năm 1977. Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2007.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 05/QĐ-XPHC ngày15/01/2018 Lương Văn T bị Công an huyện N xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”. Ngày 15/01/2018, Lương Văn T đã chấp hành xong.

Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Tiến D, sinh năm 1967; Trú tại: Phố B, thị trấn N, huyện N.Vắng mặt (Có đơn xin xử vắng mặt).

Người m chứng: ơng Đức B, sinh năm 1957; trú tại: phố Liêu Trung, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01/01/2017, Lương Văn T đã ký hợp đồng với công ty TNHH MTV xổ số kiến thiết Ninh Bình để bán các vé xổ số do Nhà nước ban hành theo đúng quy định. Lợi dụng vào công việc này, Lương Văn T đã đánh bạc B hình thức “Đánh số lô, số đề” trái phép với khách qua đường tại bàn ghi xổ số của T đặt tại phố B, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình nhằm thu lợi bất chính.

Khong 16 giờ 40 phút ngày 13/10/2018, Tổ công tác Công an thị trấn N, huyện N tuần tra kiểm soát tình hình an ninh trên địa bàn thị trấn N đã phát hiện Lương Văn T đang bán số lô, số đề trái quy định của Nhà nước cho Nguyễn Tiến D ở phố B, thị trấn N, huyện N tại bàn ghi xổ số của T ở phố B, thị trấn N, huyện N. Lương Văn T đã bán cho Nguyễn Tiến D 07 số đề gồm các số: 17, 50, 68, 86 (mỗi số 11.000 đồng); 86, 68, 50 (mỗi số 4.000 đồng); 01 số lô xiên 4 (gồm 04 số 68, 86, 50, 17) với số tiền 10.000 đồng, tổng số tiền là 66.000 đồng. Thu giữ 02 tờ “cáp lô đề” và số tiền 66.000 đồng. Ngoài ra Tổ công tác không thu giữ đồ vật, tài liệu gì khác.

Việc quy ước cách thức chơi đánh bạc bằng hình thức “Đánh số lô, số đề” và đối chiếu trúng thưởng được Lương Văn T thống nhất với Nguyễn Tiến D như sau:

Đi với “số đề”: Lấy hai số cuối của “Giải đặc biệt” xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; nếu con số của người chơi trùng với hai số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết miền Bắc thì người chơi sẽ trúng thưởng và trong trường hợp này người chơi sẽ được người bán số đề thanh toán cho mình với số tiền trúng thưởng có giá trị gấp 70 lần số tiền người chơi đã bỏ ra mua con số đề. Ngược lại, nếu người chơi không trúng thưởng thì người bán số đề sẽ được hưởng toàn bộ số tiền những người chơi đã bỏ ra mua các con số đề tương ứng.

Đi với “số lô xiên 4”: Lấy hai số cuối của 27 giải xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; nếu 04 con số của người chơi trùng với hai số cuối của 27 giải xổ số kiến thiết miền Bắc thì người chơi sẽ trúng thưởng và trong trường hợp này người chơi sẽ được người bán số lô thanh toán cho mình với số tiền trúng thưởng có giá trị gấp 100 lần số tiền người chơi đã bỏ ra mua con số lô. Ngược lại, nếu người chơi không trúng thưởng thì người bán số đề sẽ được hưởng toàn bộ số tiền những người chơi đã bỏ ra mua các con số lô tương ứng.

Quá trình điều tra đã chứng minh số tiền mà Lương Văn T và Nguyễn Tiến D sử dụng vào mục đích đánh bạc là 66.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKSNQ-HS ngày 15/1/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã quyết định truy tố bị cáo Lương Văn T ra trước Toà án nhân dân huyện N để xét xử về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên bị cáo Lương Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; Điểm i; s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo T từ 20.000.000 đồng đến 21 000.000 đồng .

* Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 66.000 đồng là công cụ bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản vi phạm hành chính, biên bản lấy lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có liên quan trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định:

Khoảng 16 giờ 40 phút ngày 13/10/2018, Lương Văn T đã bán số lô, số đề trái quy định của Nhà nước cho Nguyễn Tiến D 07 số đề gồm các số: 17, 50, 68, 86 (mỗi số 11.000 đồng); 86, 68, 50 (mỗi số 4.000 đồng); 01 số lô xiên 4 (gồm 04 số 68, 86, 50, 17) với số tiền 10.000 đồng, tổng số tiền là 66.000 đồng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự thì “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua B tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi do lỗi cố ý. Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự, thấy: Hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại quyết định truy tố, lời luận tội, chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS, bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Lương Văn T theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Nhưng trước khi quyết định hình phạt cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Đi với bị cáo T có nhân thân xấu vào ngày 15/01/2018 đã bị Công an huyện N xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt nhưng đến thời điểm thực hiện hành vi đánh bạc ngày 13/10/2018 chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính.Tuy vậy hành vi đánh bạc của bị cáo là đơn giản, số lượng tiền dùng vào việc đánh bạc rất ít. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do vậy, không cần áp dụng hình phạt tù hoặc cải tạo không giam giữ mà chỉ cần áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ giáo dục đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[3]. Về vật chứng của vụ án:

Đi với số tiền 66.000 đồng là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Đi với Nguyễn T D đã có hành vi đánh bạc với số tiền dưới 5.000.000 đồng, chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Công an huyện N đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Tiến D là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lương Văn T phạm tội Đánh bạc”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 321; Các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lương Văn T 20.000.000 (hai mươi ) triệu đồng.

2. Về xử lý vật chứng Áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 66.000 đồng.

(Ủy nhiệm chi ngày 15/3/2019 của Kho bạc Nhà nước huyện N)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Lương Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HS-ST ngày 13/03/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về