Bản án 21/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN THANH LIÊM, TNH HÀ NAM

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 26/4/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 17/2019/HS-ST ngày 20 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2019/HSST ngày 26/04/2019 đối với bị cáo:

Trần Văn H - sinh năm 1992; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn C, xã T, huyện T L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; Đảng, đoàn thể: Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Đinh Thị H; có vợ Bùi Thị H và có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ, tạm giam: Không; Hiện bị cáo đang chấp hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Đặng Thị H - sinh năm 1935 (đã chết);

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Ông Phạm Văn Đ - sinh năm 1961 (là con đẻ bà Đặng Thị H);

2. Bà Phạm Thị Đ - sinh năm 1963 (là con đẻ bà Đặng Thị H);

3. Ông Phạm Quang H - sinh năm 1965 (là con đẻ bà Đặng Thị H);

4. Bà Phạm Thị C - sinh năm 1970 (là con đẻ bà Đặng Thị H);

5. Ông Phạm Văn B - sinh năm 1972 (là con đẻ bà Đặng Thị H);

Cùng cư trú tại: Thôn P, xã T, huyện T L, tỉnh Hà Nam.

6. Ông Phạm Văn K - sinh năm 1968 (là con đẻ bà Đặng Thị H); cư trú tại: Số nhà 12, ngách 16, ngõ 191, đường S, phường V, thành phố N Đ.

Người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Phạm Văn Đ - sinh năm 1961; cư trú tại: Thôn P, xã T, huyện T L, tỉnh Hà Nam; có đơn xin vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Phạm Thị Đ - sinh năm 1963;

2. Bà Hàn Thị L - sinh năm 1974;

Cùng cư trú tại: Thôn P, xã T, huyện T L, tỉnh Hà Nam; bà Đ, bà L vắng mặt không có lý do.

3. Chị Phạm Thị H - sinh năm 1990; cư trú tại: Thôn P, xã T, huyện T L, tỉnh Hà Nam; vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn H có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định, do Sở GTVT tỉnh Ninh Bình cấp ngày 25/11/2011, nhưng đã bị mất. Khoảng 16 giờ 40 phút ngày 09/10/2018, Hiển điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Winer màu trắng đen BKS 90B2 - 7…. đi từ nhà theo đường QL1A ở làn đường dành cho xe cơ giới bên phải hướng Ninh Bình - Phủ Lý để đến nhà bố vợ là ông Bùi Văn Th, trú tại thôn L, xã T, huyện T L, tỉnh Hà Nam; khi đến Km 244 + 100 QL1A thuộc địa phận thôn Phú Gia, xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam (cách ngã tư Xuân Thành khoảng 200m về phía Phủ Lý, đoạn đường trong khu vực đông dân cư), H nghe tiếng còi xe thì quay đầu lại nhìn phương tiện đi phía sau, khi ngoảnh lại nhìn phía trước H thấy bà Đặng Thị H đang đi bộ phía trước cùng chiều, cách xe mô tô của H khoảng 5 đến 6m, lúc này H phanh tay và đạp phanh chân đồng thời đánh lái sang bên trái để tránh bà H nhưng không kịp, nên phần phía trước và tay lái phải xe mô tô do H điều khiển xô vào người bà H làm bà H ngã ra đường; sau khi gây tai nạn H điều khiển xe mô tô bỏ chạy khỏi hiện trường. Hậu quả bà H bị thương được đưa đi Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam cấp cứu, đến ngày 27/10/2018 thì tử vong.

Đến khoảng 18 giờ ngày 09/10/2018, H đã tự nguyện mang xe mô tô đến hiện trường vụ tai nạn để giao nộp cho Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm để phục vụ công tác điều tra.

* Vật chứng thu giữ: Thu giữ của Trần Văn H 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại Winner màu trắng đen BKS 90B2 - 7.... và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe; gia đình bà H tự nguyện giao nộp 01 quần vải đã cũ dài 83cm và 01 áo dài tay cổ tròn, màu tím đã cũ kích thước (61 X 50)cm.

* Kết quả khám nghiệm hiện trường:

Hiện trường vụ tai nạn giao thông xảy ra tại Km 244 + 100 quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn Phú Gia, xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam có dải phân cách bê tông cứng chia thành 02 chiều xe chạy riêng biệt ngược chiều nhau trên phần đường Ninh Bình - Phủ Lý. Đoạn đường thẳng, mặt đường trải bê tông nhựa rộng 12m50 không có vạch sơn phân chia làn đường nằm trong phạm vi tác dụng của biển báo số 420 (biển báo hiệu khu vực đông dân cư). Chọn mép bên phải hướng Ninh Bình - Phủ Lý là mép đường chuẩn gọi là mép đường. Nhà anh Phạm Văn H - sinh năm 1982, trú tại thôn Phú Gia, xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm nằm phía bên phải theo hướng Ninh Bình - Phủ Lý là điểm mốc cố định: Ký hiệu (1) là vết phanh dài 6m, rộng trung bình 0m03 để lại trên mặt đường, vết có hướng Ninh Bình - Phủ Lý, điểm đầu và cuối vết gần nhất đo vào mép đường lần lượt là 4m60 và 4m70, bề mặt vết bám dính lớp màng màu đen dạng cao su; Ký hiệu (2) là đám vật chất kích thước (10 x 15) cm để lại trên mặt đường, tâm đám vết đo vào mép đường là 3m90 đo cách điểm cuối vết phanh (1) là 2m60 theo đường thẳng về phía Phủ Lý.

*Kết quả khám nghiệm xe mô tô BKS 90B2 - 7....:

Đèn xi nhan trước bên phải có xu hướng bị đẩy ép từ trước về sau, bật rời khỏi vị trí ban đầu di lệch 0,35 cm. Mặt ngoài kính đèn có vết chùi bụi trên diện (16 x 3,5) cm, vết hướng từ trước về sau, điểm thấp nhất cách mặt đất 74,5 cm; Kiểm tra các vị trí khác trên xe bám dính bụi đất, không phát hiện dấu vết liên quan.

Kiểm tra xe tại chỗ: hệ thống lái, hệ thống điện, hệ thống côn, ga số, hệ thống đèn có tác dụng.

Ngay sau khi bà H tử vong, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm đã ra quyết định Trưng cầu giám định trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam giám định xác định nguyên nhân tử vong của bà Đặng Thị H; tuy nhiên gia đình bà H kiên quyết từ chối khám nghiệm tử thi, đồng thời cam kết không khiếu nại, thắc mắc gì về nguyên nhân tử vong của bà H. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã ra Quyết định trưng cầu giám định, trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam giám định nguyên nhân tử vong của bà Đặng Thị H qua hồ sơ bệnh án.

Tại bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 09/18/GĐHS ngày 30/11/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam kết luận: “Do không khám nghiệm pháp y tử thi nên không có cơ sở xác định chính xác nguyên nhân tử vong của nạn nhân. Tuy nhiên căn cứ vào hồ sơ tài liệu có thể nhận định nguyên nhân tử vong của Đặng Thị H là do chấn thương sọ não nặng, không đáp ứng với điều trị”.

Bản cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 20/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Trần Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm c khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử - Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự

- Xử phạt Trần Văn H từ 30 đến 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Buộc bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, truy tố các bên đã tự thỏa thuận, giải quyết xong về bồi thường dân sự, nên không xem xét.

Bị cáo H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và tỏ rõ ăn năn hối cải, có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo Trần Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản hiện trường, hồ sơ bệnh án, lời khai người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 17 giờ ngày 09/10/2018, tại Km 244 + 100 QL1A thuộc địa phận thôn Phú Gia, xã Thanh Nguyên, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Trần Văn H điều khiển điều khiển xe môtô nhãn hiệu Winer màu trắng đen BKS 90B2 - 7.... lưu thông trên QL1A, ở làn đường dành cho xe cơ giới bên phải, hướng Phủ Lý - Ninh Bình; do thiếu quan sát không làm chủ tốc độ khi điều khiển xe đi qua khu vực đông dân cư, dẫn đến phần phía trước và tay lái phải của xe mô tô do H điều khiển xô vào người bà Đặng Thị H làm bà H ngã ra đường; sau khi gây tai nạn H điều khiển xe mô tô bỏ chạy khỏi hiện trường. Hậu quả bà H bị thương được đưa đi Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam cấp cứu, đến ngày 27/10/2018 thì tử vong.

[3] Hành vi nêu trên của bị cáo đã vi phạm vào khoản 23 Điều 8 và khoản 1 Điều 12 của Luật Giao thông đường bộ và phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát là hoàn toàn đúng người, đúng tội có căn cứ pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ và xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Sau khi gây ra tai nạn đã bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm, gây tâm lý hoang mang và bức xúc trong quần chúng nhân dân. Do đó Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải ra bản án nghiêm khắc tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo.

Trong lượng hình:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải. Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo cùng gia đình đã tự nguyện bồi thường dân sự cho gia đình bị hại, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn và đại diện gia đình bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị hại cũng có một phần lỗi khi tham gia giao thông đi không đúng phần đường.

Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng cải tạo bị cáo trở thành công dân lương thiện như đề nghị của Viện kiểm sát. Điều này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội biết ăn năn, hối cải.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo cùng đại diện hợp pháp của gia đình bị hại đã tự nguyện thỏa thuận giải quyết xong, nay không còn yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô BKS 90B2 -7.... và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên chủ xe Trần Văn H. Quá trình điều tra xác định, đây là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Trần Văn H, nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã ra quyết định trả lại những tài sản trên cho Trần Văn H là đúng theo quy định của pháp luật.

- Đối với 01 quần vải đã cũ dài 83cm và 01 áo dài tay cổ tròn, màu tím đã cũ kích thước (61 x 50). Quá trình điều tra xác định, đây là tài sản hợp pháp của bị hại bà Đặng Thị H, nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã ra quyết định trả lại cho ông Phạm Văn Đ (là con trai bà H) là phù hợp pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại trước khi mở phiên tòa số tiền 70.000.000 đồng cho gia đình bà Đặng Thị H, nên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội thì bị cáo không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền này.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Các điều 106, 136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Xử phạt bị cáo Trần Văn H 36 (ba sáu) tháng tù, cho hưởng án treo thời gian thử thách là 05 năm.

Giao bị cáo Trần Văn H cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T L, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án án treo”.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.

3. Án phí: Buộc bị cáo Trần Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về