Bản án 21/2019/HS-ST ngày 02/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LV, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 02/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 và ngày 02 tháng 10 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện LV, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2019/TLST-HS ngày 07/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 05/2019/HSST-QĐ ngày 15/8/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2019/HSST-QĐ ngày 12/9/2019, đối với các bị cáo:

1. Phan Văn Ch, sinh năm 1983; Nơi cư trú: ấp Trung Hòa, xã Tân Trung, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn Na và bà Đặng Thị Chi; vợ: Đặng Thị Nhi; có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 14/02/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xử phạt 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang.

2. Nguyễn Hoàng Q (Tý), sinh năm 1997; Nơi cư trú: Số 19/11, khóm Hòa Thạnh, phường Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Lén và bà Phạm Ngọc Điệp; vợ: Võ Thùy Thúy V; tiền án, tiền sự: Không. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố Cần Thơ.

3. Nguyễn Chí T, sinh năm 1994; Nơi cư trú: A2-64, đường Trần Hữu Trang, khu phố 1, phường Vĩnh Bảo, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Hải và bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết; vợ: Ngô Ngọc Hân; có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang.

- Bị hại:

1. Lê Tấn H, sinh năm 1963. Hiệu trưởng Trường THCS Vĩnh Thạnh. địa chỉ cư trú: Số 921, ấp Hưng Lợi Đông, xã Long Hưng B, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

2. Thành Bạch H, sinh năm 1973. Hiệu trưởng Trường THPT Đỗ Công Tường. Địa chỉ: khóm Thuận Nghĩa, phường Hòa Thuận, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

3. Trần Thị Th Th, sinh năm 1982. Hiệu trưởng Trường THCS Võ Thị Sáu. Địa chỉ: Đường Nguyễn Sinh Sắc, khu phố 2, phường 2, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

- Người làm chứng:

1. Đặng Thị Châu H; địa chỉ cư trú: Giáo viên Trường THPT Đỗ Công Tường (Vắng mặt).

2. Trần Quốc T, sinh năm 1962; địa chỉ cư trú: tổ 3, khóm Mỹ Phú Cù Lao, thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

3. Nguyễn Văn B, sinh năm 1974; địa chỉ cư trú: tổ 9, ấp Tịnh Long, xã Tịnh Thới, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

4. Phạm Ngọc Ánh Ng, sinh ngày 02/10/2004 (Người đại diện theo pháp luật là cha, mẹ em Nguyệt); địa chỉ cư trú: Số 253C, ấp Phú Long, xã Tân Phú Đông, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

5. Trần Văn R, sinh năm 1971; địa chỉ cư trú: Số 124/19/20, khóm 2, phường 1, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

6. Nguyễn Phi Nh, sinh ngày 28/4/2004 (Người đại diện theo pháp luật là cha, mẹ em Nhung); địa chỉ cư trú: Số 510, Phú Hòa, xã Tân Phú Đông, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

7. Ngô Thị Ngọc H, sinh ngày 10/01/2004 (Người đại diện theo pháp luật là cha, mẹ em Hà); địa chỉ cư trú: Số 321/2, Phú Thành, xã Tân Phú Đông, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

8. Nguyễn Ngọc Mai T, sinh ngày 13/8/2003 (Người đại diện theo pháp luật là cha, mẹ em Thi); địa chỉ cư trú: Số 300/1, Phú Thành, xã Tân Phú Đông, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt) 9. Nguyễn Hữu H, sinh năm 1982; địa chỉ cư trú: Số 204, ấp Hưng Quới 1, xã Long Hưng A, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

10. Lê Quang Th, sinh năm 1974; địa chỉ cư trú: Số 154/5, Tân An, xã Phong Hòa, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

11. Phạm Thị Thu Tr, sinh năm 1977; địa chỉ cư trú: Số 98, ấp Vĩnh Bình A, xã Vĩnh Thạnh, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt).

12. Nguyễn Văn Nh, sinh năm 1975; địa chỉ cư trú: ấp Vĩnh Bình A, xã Vĩnh Thạnh, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

13. Trần Quốc H, sinh năm 1981; địa chỉ cư trú: Số 393, ấp Vĩnh Bình A, xã Vĩnh Thạnh, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

14. Võ Thùy Thúy V, sinh năm 1999; địa chỉ cư trú: Số 14A/7, ấp Tân Hiệp, xã Tân Hạnh, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Văn Ch là đối tượng không có nghề nghiệp và nơi ở ổn định. Để có tiền tiêu xài, Ch rủ Nguyễn Hoàng Q và Nguyễn Chí T dùng xe mô tô và ô tô chở Ch đến các Trường học để Ch đột nhập vào lấy trộm các linh kiện máy vi tính về bán lấy tiền chia nhau tiêu xài.Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2018, Ch cùng với Q và T đến địa bàn thành phố Sa Đéc, huyện LV, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp thực hiện tổng cộng 03 vụ trộm cắp tài sản tại các trường học, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Chiều ngày 18/3/2018, Ch điện thoại rủ Q qua địa phận thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp để trộm tài sản thì Q đồng ý. Đến 21 giờ 00 phút cùng ngày, Q điều khiển xe môtô hiệu Vision biển số 64B1- 858.29 của vợ đến chở Ch qua phà Vàm Cống, đi theo đường Quốc lộ 80 hướng về Thành phố Sa Đéc.

Khi đến địa phận Thành phố Sa Đéc Ch và Q ghé vào quán nhậu uống rượu đến khoảng 00 giờ, ngày 19/3/2018, Ch kêu Q chở đến trước trường THCS Võ Thị Sáu thuộc khóm 2, phường 2, thị xã Sa Đéc rồi kêu Q có đi đâu thì đi chờ điện thoại của Ch. Q chạy xe đến quán ở gần đó uống nước, còn Ch một mình đột nhập vào trường, leo lên tầng 1 thì phát hiện phòng máy tính nên dùng kiềm cộng lực cắt ổ khóa cửa sắt, đột nhập vào phòng, dùng tuột vít tháo 25 máy vi tính gỡ lấy 25 mainboard H81MDS2, 25 CPU G3220, 25 thanh Ram DDR3 2Gb bỏ vào 02 bọc nilon lớn màu xanh và theo đường cũ thoát ra ngoài.

Ch ra trước cổng trường điện thoại cho Q đến rước Ch về nhà trọ của Ch, còn Q chạy xe về nhà ngủ. Đến sáng hôm sau Ch mang số thiết bị trộm được bán cho Nguyễn Thanh Sang, sinh năm 1989, chủ cửa hàng mua bán máy vi tính S&T ở khóm Đông Thịnh 6, phường Mỹ Phước, Thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang với tổng số tiền là 20.000.000 đồng. Sau khi bán được tài sản, Ch cho Q 2.000.000 đồng, số tiền còn lại Ch tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ hai: Khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 04/4/2018, trong lúc uống cà phê một mình tại Thành phố Long Xuyên, An Giang, Nguyễn Hoàng Q nhận được điện thoại của Ch rủ Q đi lấy đồ tại Đồng Tháp (Q hiểu là đi trộm) thì Q đồng ý. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Ch điều khiển xe mô tô loại Atila, (không nhớ rõ biển số) đến quán cà phê rước Q rồi đưa xe cho Q chở Ch đến địa phận huyện LV, tỉnh Đồng Tháp tìm tài sản trộm. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi đến trước cổng trường THCS Vĩnh Thạnh thuộc ấp Vĩnh Bình A, xã Vĩnh Thạnh, huyện LV, Đồng Tháp Ch kêu Q dừng xe lại để Ch xuống xe rồi kêu Q tìm nhà trọ ngủ chờ điện thoại của Ch. Q chạy xe vào khu vực chợ Vĩnh Thạnh ghé vào quán kêu cháo ra ăn và kêu nước uống ngồi chờ Ch. Ch mang theo 01 kiềm cộng lực, 01tuột vít, 02 túi nilon leo rào đột nhập vào trường. Khi lên lầu một, ở phòng đầu tiên Ch phát hiện phòng để các máy vi tính, nên dùng kiềm cộng lực cắt ổ khóa phòng rồi đi vào dùng vít tháo các nắp CPU máy tính lấy được 14 bộ linh kiện của 14 máy vi tính gồm: 14 CPU Intel ® Pentium G600, 14 Mainboard GA-H110M-D3H, 14 thanh Ram DDR4 4Gb bỏ vào bọc nilon rồi thoát ra ngoài bằng đường cũ điện thoại cho Q đến rước. Khi Q đến, Ch để túi nilon chứa các linh kiện máy tính vừa trộm được trước xe rồi kêu Q chở Ch về nhà. Q về nhà ngủ, Còn Ch chạy xe cùng túi linh kiện trộm được về nhà trọ. Đến sáng hôm sau, Ch mang số linh kiện trên bán cho Nguyễn Thanh Sang với giá 7.000.000 đồng, Ch cho Q 1.000.000 đồng, số tiền còn lại Ch tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ ba: Vào ngày 09/5/2018, Ch điện thoại rủ Nguyễn Chí T đi trộm tài sản tại địa bàn Thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp thì T đồng ý. T thuê một chiếc xe ô tô 7 chỗ, hiệu INOVA (không nhớ màu và biển số xe), của một người tại Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, điều khiển về Thành phố Long Xuyên để rước Ch. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe chở Ch đến Thành phố Cao Lãnh ghé quán ăn uống rồi điều khiển xe chạy quanh khu vực Thành phố Cao Lãnh tìm trường học để trộm. Khoảng 23 giờ cùng ngày, thì cả hai phát hiện trường THPT Đỗ Công Tường, thuộc phường Hòa Thuận, Thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Ch bảo T chạy xe 02 vòng xung quanh trường để quan sát rồi Ch xuống xe mang theo 01 kiềm cộng lực, 01 tuột vít leo cổng phụ đột nhập vào trong trường, còn T điều khiển xe ra vòng xoay đầu đường đậu xe chờ. Đến khoảng 01 giờ 20 phút ngày 10/05/2019, Ch đột nhập vào trường, đi lên lầu 01 phát hiện phòng để máy vi tính nên dùng kiềm cộng lực cắt khóa ngoài vào phòng, dùng tuột vít mang theo tháo các thùng máy, lấy được 08 CPU Pentium G3450 và 08 thanh RAM DDR3 2Gb 1600 Kingmax, tiếp theo Ch đi đến phòng cạnh bên, dùng kiềm cắt khóa ngoài đi vào phòng dùng vít tháo thùng máy và lấy được 01 Ram DDR3 4Gb 1600 Kingmax và 01 CPU Intel Core i3 4170. Ch tiếp tục sang phòng kế bên dùng kiềm cộng lực cắt khóa ngoài, đi vào phòng lấy được 02 thanh Ram DDR2 2Gb 800 Kingmax và 01 CPU Pentium G3450 , còn 01 CPU đã cũ nên Ch không lấy, tại phòng này Ch phát hiện có một két sắt nên dùng vít đục phá nhưng không được, Ch bỏ đi ra ngoài, theo đường cũ ra khỏi trường điện thoại cho T kêu quay lại chỗ cũ rước Ch chở về thành phố Long Xuyên An Giang ngủ. Đến 09 giờ 00 phút, ngày 10/5/2018, Ch mang số tài sản trộm được bán cho Sang với giá 4.000.000 đồng, Ch chia cho T 800.000 đồng, số tiền còn lại Ch tiêu xài cá nhân hết.

Đến ngày 08/9/2018, Phan Văn Ch và Nguyễn Chí T bị Công an TX Gò Công, tỉnh Tiền Giang bắt giữ về tội trộm cắp tài sản.

Đến ngày 17/10/2018, Nguyễn Hoàng Q bị Công an Quận Ô Môn, TP. Cần Thơ bắt giữ về tội trộm cắp tài sản.

Ngoài các lần trên, Ch còn cùng với T và Q thực hiện nhiều vụ trộm linh kiện máy tính ở các trường học trên địa bàn các tỉnh Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Bình Phước, Bà Rịa - Vũ Tàu, An Giang, Tp. Cần Thơ, Cà Mau, Kiên Giang và tỉnh Bến Tre.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sa Đéc thu được 05 dấu vân tay tại hiện trường, nghi là do đối tượng gây án để lại và tiến hành trích xuất và thu giữ 03 đoạn camera của trường THCS Võ Thị Sáu ghi hình ngày 19/03/2018 có hình ảnh ghi lại đối tượng đột nhập vào trường lấy trộm tài sản, 01 đoạn camera tại quán The Win ghi hình ngày 19/03/2018.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LV thu giữ: 01 cây kiềm cộng lực màu vàng, cán nhựa màu đen, đã qua sử dụng; 01 ổ khóa bằng kim qua loại bị cắt đứt, đã sử dụng; 02 khoen cửa bằng kim loại bị cắt đứt, đã qua sử dụng; 07 dấu vết đường vân để lại trên cửa kính và các thùng CPU tại các vị trí các số 3, 8, 9, 10, 11 và 12 tại hiện trường.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Lãnh thu giữ: 06 dấu vết đường vân trên các thùng CPU máy tính số 5, 11, 31, 33 trong phòng tin học 2 bằng phương pháp quét bột, chụp ảnh.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 47/ HĐĐGTS, ngày 19/11/2018, của Hội đồng định giá tài sản Thành phố Sa Đéc kết luận: 25 mainboard H81MDS2, 25 CPU G3220, 25 thanh Ram DDR3 2Gb có tổng giá trị tài sản định giá là 49.250.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 21/HĐĐG-TS, ngày 16/11/2018, của Hội đồng định giá tài sản huyện LV, Đồng Tháp kết luận: 14 CPU Intel ® Pentium G600, 14 Mainboard GA-H110M-D3H, 14 thanh Ram DDR4 4Gb có tổng giá trị tài sản định giá là 67.900.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 106/ KL-ĐGTS, ngày 23/10/2018, của Hội đồng định giá tài sản Thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp kết luận: 01 thanh Ram DDR3 4Gb 1600 Kingmax, 08 thanh Ram DDR3 2Gb 1600 Kingmax, 02 thanh Ram DDR2 2Gb 800 Kingmax, 01 CPU Intel Core i3 4170, 09 CPU Pentium G3450 có tổng giá trị tài sản định giá là 15.560.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 908/KL-KTHS, ngày 20/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Dấu vết đường vân thu ở hiện trường vụ trộm cắp tài sản xảy ra ngày 19/03/2018 tại trường THCS Võ Thị Sáu, khóm 2, phường 2, TP. Sa Đéc. Dấu vết đường vân cần giám định ký hiệu A1, A2, A3 so với dấu vết vân tay in trên ô ngón cái phải, giữa trái, trỏ trái chỉ bản ghi họ tên Phan Văn Ch, sinh năm 1983, nơi ĐKTT ấp Trung Hòa, xã Tân Trung, huyện Phú Tân, An Giang, lập ngày 16/11/2018 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang mẫu so sánh ký hiệu M do cùng một người in ra.

Tại Kết luận giám định số 832/KL-KTHS, ngày 26/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Dấu vết đường vân thu tại phòng tin học của trường THPT Đỗ Công Tường trong vụ trộm cắp tài sản xảy ra ngày 10/05/2018 cần giám định ký hiệu A1so với dấu vết vân tay in tại ô ngón cái trái trên chỉ bản ghi họ tên Phan Văn Ch, sinh năm 1983, nơi ĐKTT ấp Trung Hòa, xã Tân Trung, huyện Phú Tân, An Giang, lập ngày 16/11/2018 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang mẫu so sánh ký hiệu M do cùng một người in ra.

Tại Thông báo số 318/TB-PV06(Đ5) ngày 26/09/2018 của Phòng PV06 Công an tỉnh Đồng Tháp thông báo dấu vân tay thu được tại hiện trường vụ trộm cắp tài sản xảy ra ngày 5/4/2018 tại trường THCS Vĩnh Thạnh thuộc ấp Vĩnh Bình A, xã Vĩnh Thạnh, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp là dấu vân tay do Phan Văn Ch để lại hiện trường.

Ngày 16/11/2018, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Sa Đéc tiến hành cho Phan Văn Ch nhận dạng người trong các camera thu được tại trường THCS Võ Thị Sáu và quán The Win. Kết quả Ch xác định người trong camera thu được tại trường THCS Võ Thị Sáu là Phan Văn Ch và người trong camera thu được tại quán The Win là Nguyễn Hoàng Q.

Đi với Nguyễn Thanh Sang có hành vi 03 lần mua linh kiện máy tính của Ch trộm được mà có bán cho Sang. Hiện Sang bỏ trốn, không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra không làm việc được, khi nào làm rõ xử lý sau.

Tại phiên tòa bị hại đại diện trường THCS Vĩnh Thạnh yêu cầu Phan Văn Ch bồi thường số tiền 58.100.000 đồng; đại diện trường THCS Võ Thị Sáu yêu cầu Phan Văn Ch bồi thường số tiền 49.250.000 đồng.

Đại diện trường THPT Đỗ Công Tường yêu cầu Phan Văn Ch bồi thường số tiền 15.560.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo Phan Văn Ch đồng ý một mình bồi thường cho các bị hại, không yêu cầu bị cáo Nguyễn Hoàng Q và Nguyễn Chí T cùng liên đới bồi thường.

Bản cáo trạng số: 13/CT-VKSLVo ngày 30/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện LV đã truy tố bị cáo Phan Văn Ch và Nguyễn Hoàng Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Chí T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo Phan Văn Ch, Nguyễn Hoàng Q và Nguyễn Chí T thừa nhận hành vi phạm tội của các bị cáo, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với Phan Văn Ch, Nguyễn Hoàng Q và Nguyễn Chí T về tội “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phan Văn Ch, Nguyễn Hoàng Q và Nguyễn Chí T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Văn Ch từ 04 (Bốn) năm đến 05 (Năm) năm tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Q từ 03 (Ba) năm đến 04 (Bốn) năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

Tch thu tiêu hủy: 01 cây kiềm cộng lực màu vàng, cán nhựa màu đen, đã qua sử dụng, 01 ổ khóa bằng kim qua loại bị cắt đứt, 02 khoen cửa bằng kim loại bị cắt đứt.

Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng Q nộp lại tiền thu lợi bất Ch 3.000.000 đồng tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, Điều 585 và Điều 587 Bộ luật Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

Phan Văn Ch bồi thường cho trường THCS Vĩnh Thạnh số tiền 58.100.000 đồng; Trường THCS Võ Thị Sáu số tiền 49.250.000 đồng và Trường THPT Đỗ Công Tường số tiền 15.560.000 đồng.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ, vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện LV và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện LV và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định và hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa người làm chứng đã được triệu tập, nhưng có đơn xin vắng mặt, việc vắng mặt của người làm chứng không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án. Do đó, căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng.

[3] Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2018 đến tháng 5/2018 các bị cáo Phan Văn Ch, Nguyễn Hoàng Q và Nguyễn Chí T đã lợi dụng sự sơ hở của các bị hại gồm: Trường THCS Võ Thị Sáu thuộc khóm 2, phường 2, TP. Sa Đéc; Trường THCS Vĩnh Thạnh, thuộc xã Vĩnh Thạnh, huyện LV và Trường THPT Đỗ Công Tường thuộc phường Hòa Thuận, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong việc quản lý tài sản nên đã lén lút đột nhập vào các trường này lấy trộm linh kiện máy vi tính với tổng giá trị tài sản thiệt hại là 132.710.000 đồng để bán lấy tiền tiêu xài, trong đó:

Bị cáo Phan Văn Ch là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản 03 lần với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt được là 132.710.000đồng.

Bị cáo Nguyễn Hoàng Q dùng phương tiện chở Ch đi trộm cắp 02 lần với tổng giá trị tài sản trộm được là 117.150.000 đồng. Hưởng lợi từ việc tham gia trộm cắp tài sản 3.000.000 đồng.

Bị cáo Nguyễn Chí T dùng phương tiện chở Ch đi trộm cắp 01 lần với giá trị tài sản trộm được là 15.560.000 đồng. Bị cáo T nhận của bị cáo Ch 800.000 đồng để trả tiền thuê xe.

[4] Lời khai của các bị cáo Ch, Q và T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết quả giám định vân tay, kết quả định giá tài sản và biên bản nhận dạng, cùng với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cho thấy việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo Ch, Q, T ra trước phiên tòa về hành vi phạm tội như đã nêu trên là có căn cứ, cũng như lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với các bị cáo là đúng. Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo Ch, Q, T là đúng và hành vi của các bị cáo là có tội.

[5] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương nơi xảy ra vụ án, làm ảnh hưởng đến việc học tập của các em học sinh và công tác giảng dạy tại các trường. Do đó, việc đưa các bị cáo ra xét xử tại phiên tòa hôm nay là việc làm cần thiết.

Các bị cáo Ch, Q, T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe để lao động nuôi sống bản thân và gia đình, nhưng do bản thân không có nghề nghiệp ổn định, bản tính tham lam lười lao động, nhưng muốn có tiền tiêu xài mà không phải bỏ công sức lao động, nên đã có hành vi phạm tội như đã nêu trên.

[6] Trong vụ án này các bị cáo Ch, Q, T cùng tham gia thực hiện tội phạm nhưng không có sự câu kết chặt chẽ với nhau cũng không có sự phân công, bàn bạc, sắp đặt vai trò cụ thể cho nhau và hứa hẹn ăn chia cụ thể như thế nào nên đây chỉ là dạng đồng phạm giản đơn theo khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét về nhân thân, hành vi, động cơ, tính chất, mức độ và hậu quả trong việc phạm tội của từng bị cáo có khác nhau. Cho nên, cần xem xét, phân tích vai trò của từng bị cáo như sau:

Đi với bị cáo Ch là người chủ động, rủ rê lôi kéo bị cáo Q và bị cáo T, cũng là người chuẩn bị công cụ phạm tội và trực tiếp thực hiện tội phạm. Do đó, bị cáo phải là người chịu trách nhiệm Ch trong vụ án.

Bị cáo Q và bị cáo T khi nghe bị cáo Ch rủ đi trộm, đáng lý ra các bị cáo phải từ chối và can ngăn, nhưng các bị cáo không làm mà lại đồng ý và trực tiếp chở bị cáo Ch đến nơi thực hiện tội phạm, nên các bị cáo là đồng phạm với vai trò giúp sức tích cực.

[7] Tại phiên tòa các bị cáo khai rằng biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện và thực hiện tội phạm đã hoàn thành. Hành vi của bị cáo Phan Văn Ch và Nguyễn Hoàng Q đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo Nguyễn Chí T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Do đó, bị cáo Ch, Q, T phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Việc cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định là cần thiết, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích gia đình và xã hội đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[8] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết:

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Ch, Q, T trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Do đó cần cho bị cáo Ch, Q, T hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: không có.

[9] Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[10] Về trách nhiệm dân sự:

Xét việc tự nguyện bồi thường của bị cáo Ch và yêu cầu bồi thường của các bị hại là có căn cứ và phù hợp với pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về xử lý vật chứng: Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí: Bị cáo Ch, Q, T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Văn Ch, Nguyễn Hoàng Q và Nguyễn Chí T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Văn Ch 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Q 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, Điều 585, Điều 587 Bộ luật Dân sự.

Phan Văn Ch bồi thường cho trường THCS Vĩnh Thạnh số tiền 58.100.000 đồng (Năm mươi tám triệu một trăm nghìn đồng); Trường THCS Võ Thị Sáu số tiền 49.250.000 đồng (Bốn mươi chín triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) và Trường THPT Đỗ Công Tường số tiền 15.560.000 đồng (Mười lăm triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 01 cây kiềm cộng lực màu vàng, cán nhựa màu đen, đã qua sử dụng, 01 ổ khóa bằng kim loại bị cắt đứt, 02 khoen cửa bằng kim loại bị cắt đứt.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 23 và Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Bị cáo Phan Văn Ch, Nguyễn Hoàng Q và Nguyễn Chí T mỗi bị cáo chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Phan Văn Ch chịu 6.145.000 đồng (Sáu triệu một trăm bốn mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

507
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HS-ST ngày 02/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về